![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
VÀI DẤU ẤN VỀ CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 153.00 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Dù sao, đề tài về chiến tranh, đề tài về người lính vẫn cứ đeo đẳng hoài như một món nợ đối với thế hệ họa sĩ đã trải qua hai cuộc chiến tranh vào loại dai dẳng nhất, khốc liệt nhất và cũng rất đỗi hào hùng của dân tộc Việt Nam ta. Chiều cuối thu se lạnh. Tôi chợt nhớ tới những kỷ niệm khó quên về chuyện thi cử, học hành của mình tại trường Mỹ thuật trong những năm chiến tranh ác liệt. ĐẶNG TRẦN SƠN-Trưởng xe tăng Lê Trung Tuyến, Binh đoàn Tây Nguyên-Ký họa...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
VÀI DẤU ẤN VỀ CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH VÀI DẤU ẤN VỀ CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH Dù sao, đề tài về chiến tranh, đề tài về người lính vẫn cứ đeo đẳng hoài như một món nợ đối với thế hệ họa sĩ đã trải qua hai cuộc chiến tranh vào loại dai dẳng nhất, khốc liệt nhất và cũng rất đỗi hào hùng của dân tộc Việt Nam ta. Chiều cuối thu se lạnh. Tôi chợt nhớ tới những kỷ niệm khó quên về chuyện thi cử, học hành của mình tại trường Mỹ thuật trong những năm chiến tranh ác liệt. Sau nhiều năm công tác ở miền ĐẶNG TRẦN SƠN-Trưởng xe núi rừng Tây Bắc xa xôi, mãi tới tăng Lê Trung Tuyến, Binh đoàn giữa năm 1965 tôi mới được Ty Tây Nguyên-Ký họa Văn hóa Lai Châu đồng ý cho về dự kỳ thi tuyển vào trường Mỹ thuật Việt Nam (nay là Đại học Mỹ thuật Hà Nội). Trường sơ tán về vùng Hà Tây. Gần hai trăm thí sinh từ khắp nơi về “tỷ thí” với nhau ở ngôi đình làng Tốt Động đúng vào những ngày mưa to gió lớn. Vậy mà trường chỉ chọn lấy 10 người. Số phận thật mong manh. Thi xong, tôi lại trở lên cơ quan. Thời gian ấy máy bay Mỹ đánh phá rất dữ dội. Cơ quan phải sơ tán trong khu rừng Pa Ham đầy muỗi và vắt. Mong mỏi hoài mà không thấy có giấy báo kết quả thi của trường. Ngày lại ngày chỉ hai bữa ngô bung ăn với măng luộc chấm muối trắng. Công việc cơ quan vẫn phải khẩn trương hoàn thành. Nguyễn Thăng viết tin chiến sự, tôi vẽ minh họa trên giấy “tăng xin” và người in -rô-nê-ô là Trần Văn Thủy (lúc ấy chưa trở thành đạo diễn của Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tế, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai...). Lòng dạ càng bồn chồn, chờ trông và hy vọng mong manh. Sau 5 tháng trời đằng đẵng, tưởng dài tới 5 năm, giữa tháng 12/1965 tôi mới nhận được giấy triệu tập về học của trường. Mừng vui không thể tả nổi. Từ cánh rừng Pa Ham heo hút, tôi phải mất trọn 11 ngày đêm vượt qua bom đạn, lặn lội, đói khát mới về tới Hà Nội. Trường lại sơ tán lên vùng Hiệp Hòa (Hà Bắc). Ngay đêm ấy, tôi đáp tầu hỏa lên trường. Với bộ quần áo lấm đầy bụi đất, chiếc mũ lá rách bươm và khuôn mặt xanh xao, hốc hác, anh em bạn quen ở trường không còn nhận được ra tôi. Thế đấy, cái sự được về học của tôi sao mà lắm truân chuyên đến vậy! Thời gian học ở trường cũng thật kham khổ. Sau bữa cơm tập thể mà cứ tưởng như mình chưa được ăn. Lúc nào cũng thấy đói nhưng vẫn lăn xả vào mà học. Khổ nhất là những buổi vẽ mẫu khỏa thân. Phòng vẽ bằng tre nứa, thanh niên địa phương tìm đủ mọi cách để xem trộm lại còn đồn đại linh tinh làm cho các cô người mẫu rất khổ tâm, ngượng ngùng. Sinh viên phải cắt phiên nhau để canh gác xung quanh phòng vẽ. Vậy mà tối tối vẫn lũ lượt đi tập văn nghệ. Những đêm diễn vẫn vô cùng say mê, sôi động. Những dàn hợp xướng: Sóng Cửa Tùng, Tiếng hát trên biên thùy, Thề quyết bảo vệ Tổ quốc... Những hợp ca:Tiếng chày trên sóc Bom bo, tổ khúc Hành quân... Những vở kịch như: Chiếc áo màu hoa cà, Nàng bắn lén... đã được bà con địa phương, các trường bạn và đặc biệt là trường âm nhạc Việt Nam (đơn vị kết nghĩa) vô cùng nể trọng. Những hạt nhân văn nghệ xuất sắc lúc bấy giờ có rất nhiều như: Lưu Mai Phương, Huỳnh Thị Triết, Tạ Phương Thảo, Trần Thị Hồng, Ka Lê Thắng, Mô Lô Kai, Vi Quốc Hiệp, Lê Trí Dũng, Lê Đức Biết v.v... Họ đã là nòng cốt cho một thời kỳ oanh liệt nhất trong phong trào tiếng hát át tiếng bom của Trường Mỹ thuật Việt Nam. Hào hứng và đáng nhớ nhất là những mùa thực tập, mỗi năm khoảng 3 tháng. Cả lớp tỏa đi khắp nơi, nhất là những địa bàn nóng bỏng và ác liệt để mà vẽ, mà tôi luyện. Tôi đã cùng với Trần Văn Phú, Trần Thành Công, Giang Nguyên Thái, Nguyễn Hồng Xuân, Trần Văn Thọ... đạp xe xuống vùng đất mỏ Quảng Ninh. Vừa mới vượt qua đèo Bụt được một quãng đã bị “phủ đầu” bằng một trận bom khủng khiếp. Mười hai chiếc “con ma” thay nhau bổ nhào, cắt bom xuống kho gạo chỉ cách chúng tôi dăm chục mét. Đất đá, khói bụi, mảnh bom tung tóe, mịt mù. Dứt đợt oanh tạc, chúng tôi vội lên xe phóng thật nhanh. Trần Thành Công còn cố nhặt một mảnh bom làm kỷ niệm. Mảnh bom nóng quá nên Công cứ phải tung tung lên cho khỏi bị bỏng tay. Chúng tôi chia từng nhóm để vẽ ở Cửa Ông, Đèo Nai, Cẩm Phả. Tôi và Trần Văn Phú vẽ ở mỏ Thống Nhất. Ngày thì vẽ thông tầm trong hầm lò ẩm ướt, tối tăm. Tối lại cùng đội văn nghệ xung kích đi biểu diễn khắp nơi. Cánh thợ mỏ xếp cho tôi vào loại “bậc 7” về ca hát và đệm đàn ghi ta. Xót xa nhất là mỗi sáng sớm chúng tôi lại phải viết những tấm bia mộ cho những người bị bom “tọa độ” sát hại vào đêm hôm trước. Lớp chúng tôi cũng từng “cắm chốt” và vẽ ở trận địa lão dân quân Hoàng Trường (Thanh Hóa). Những cụ cố “ăn sóng nói gió” này ngoài bảy mươi tuổi mà vẫn khỏe như vâm, vác súng 12 ly 7 chạy phăm phăm lên trận địa trên đồi cao. Nhớ nhất là “ vụ” Nguyễn Thanh Minh và Văn Thơ trổ tài “dân vận” với mấy cô ở cửa hàng mậu dịch để mua được mấy cân đường đỏ mang về nấu chè đậu “răng ngựa” làm cả lớp bị ngộ độc phải khiêng đi trạm xá. Chúng tôi cũng vẽ hàng tháng trời trận địa nữ dân quân Hậu Lộc, đơn vị nữ đầu tiên trên miền Bắc bắn rơi máy bay phản lực Mỹ bằng trọng liên 14 ly 5. Họ thật dễ thương và đáng cảm phục khiến tôi từng có những câu thơ: ... Em đẹp dịu dàng, hiền thảo, đảm đang Chỉ tiễn đưa nhau đã mau nước mắt Đối mặt giặc trời, em vẫn hiên ngang Say đắm bút màu ngày ấy vẽ em Như những Thiên Thần, như những nàng Tiên Gió biển ru êm những đêm trực chiến Thương đến đong đầy mỗi chút bình yên... Bước vào năm thứ 5, chúng tôi lại tỏa đi khắp nơi để thâm nhập, lấy tài ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
VÀI DẤU ẤN VỀ CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH VÀI DẤU ẤN VỀ CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH Dù sao, đề tài về chiến tranh, đề tài về người lính vẫn cứ đeo đẳng hoài như một món nợ đối với thế hệ họa sĩ đã trải qua hai cuộc chiến tranh vào loại dai dẳng nhất, khốc liệt nhất và cũng rất đỗi hào hùng của dân tộc Việt Nam ta. Chiều cuối thu se lạnh. Tôi chợt nhớ tới những kỷ niệm khó quên về chuyện thi cử, học hành của mình tại trường Mỹ thuật trong những năm chiến tranh ác liệt. Sau nhiều năm công tác ở miền ĐẶNG TRẦN SƠN-Trưởng xe núi rừng Tây Bắc xa xôi, mãi tới tăng Lê Trung Tuyến, Binh đoàn giữa năm 1965 tôi mới được Ty Tây Nguyên-Ký họa Văn hóa Lai Châu đồng ý cho về dự kỳ thi tuyển vào trường Mỹ thuật Việt Nam (nay là Đại học Mỹ thuật Hà Nội). Trường sơ tán về vùng Hà Tây. Gần hai trăm thí sinh từ khắp nơi về “tỷ thí” với nhau ở ngôi đình làng Tốt Động đúng vào những ngày mưa to gió lớn. Vậy mà trường chỉ chọn lấy 10 người. Số phận thật mong manh. Thi xong, tôi lại trở lên cơ quan. Thời gian ấy máy bay Mỹ đánh phá rất dữ dội. Cơ quan phải sơ tán trong khu rừng Pa Ham đầy muỗi và vắt. Mong mỏi hoài mà không thấy có giấy báo kết quả thi của trường. Ngày lại ngày chỉ hai bữa ngô bung ăn với măng luộc chấm muối trắng. Công việc cơ quan vẫn phải khẩn trương hoàn thành. Nguyễn Thăng viết tin chiến sự, tôi vẽ minh họa trên giấy “tăng xin” và người in -rô-nê-ô là Trần Văn Thủy (lúc ấy chưa trở thành đạo diễn của Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tế, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai...). Lòng dạ càng bồn chồn, chờ trông và hy vọng mong manh. Sau 5 tháng trời đằng đẵng, tưởng dài tới 5 năm, giữa tháng 12/1965 tôi mới nhận được giấy triệu tập về học của trường. Mừng vui không thể tả nổi. Từ cánh rừng Pa Ham heo hút, tôi phải mất trọn 11 ngày đêm vượt qua bom đạn, lặn lội, đói khát mới về tới Hà Nội. Trường lại sơ tán lên vùng Hiệp Hòa (Hà Bắc). Ngay đêm ấy, tôi đáp tầu hỏa lên trường. Với bộ quần áo lấm đầy bụi đất, chiếc mũ lá rách bươm và khuôn mặt xanh xao, hốc hác, anh em bạn quen ở trường không còn nhận được ra tôi. Thế đấy, cái sự được về học của tôi sao mà lắm truân chuyên đến vậy! Thời gian học ở trường cũng thật kham khổ. Sau bữa cơm tập thể mà cứ tưởng như mình chưa được ăn. Lúc nào cũng thấy đói nhưng vẫn lăn xả vào mà học. Khổ nhất là những buổi vẽ mẫu khỏa thân. Phòng vẽ bằng tre nứa, thanh niên địa phương tìm đủ mọi cách để xem trộm lại còn đồn đại linh tinh làm cho các cô người mẫu rất khổ tâm, ngượng ngùng. Sinh viên phải cắt phiên nhau để canh gác xung quanh phòng vẽ. Vậy mà tối tối vẫn lũ lượt đi tập văn nghệ. Những đêm diễn vẫn vô cùng say mê, sôi động. Những dàn hợp xướng: Sóng Cửa Tùng, Tiếng hát trên biên thùy, Thề quyết bảo vệ Tổ quốc... Những hợp ca:Tiếng chày trên sóc Bom bo, tổ khúc Hành quân... Những vở kịch như: Chiếc áo màu hoa cà, Nàng bắn lén... đã được bà con địa phương, các trường bạn và đặc biệt là trường âm nhạc Việt Nam (đơn vị kết nghĩa) vô cùng nể trọng. Những hạt nhân văn nghệ xuất sắc lúc bấy giờ có rất nhiều như: Lưu Mai Phương, Huỳnh Thị Triết, Tạ Phương Thảo, Trần Thị Hồng, Ka Lê Thắng, Mô Lô Kai, Vi Quốc Hiệp, Lê Trí Dũng, Lê Đức Biết v.v... Họ đã là nòng cốt cho một thời kỳ oanh liệt nhất trong phong trào tiếng hát át tiếng bom của Trường Mỹ thuật Việt Nam. Hào hứng và đáng nhớ nhất là những mùa thực tập, mỗi năm khoảng 3 tháng. Cả lớp tỏa đi khắp nơi, nhất là những địa bàn nóng bỏng và ác liệt để mà vẽ, mà tôi luyện. Tôi đã cùng với Trần Văn Phú, Trần Thành Công, Giang Nguyên Thái, Nguyễn Hồng Xuân, Trần Văn Thọ... đạp xe xuống vùng đất mỏ Quảng Ninh. Vừa mới vượt qua đèo Bụt được một quãng đã bị “phủ đầu” bằng một trận bom khủng khiếp. Mười hai chiếc “con ma” thay nhau bổ nhào, cắt bom xuống kho gạo chỉ cách chúng tôi dăm chục mét. Đất đá, khói bụi, mảnh bom tung tóe, mịt mù. Dứt đợt oanh tạc, chúng tôi vội lên xe phóng thật nhanh. Trần Thành Công còn cố nhặt một mảnh bom làm kỷ niệm. Mảnh bom nóng quá nên Công cứ phải tung tung lên cho khỏi bị bỏng tay. Chúng tôi chia từng nhóm để vẽ ở Cửa Ông, Đèo Nai, Cẩm Phả. Tôi và Trần Văn Phú vẽ ở mỏ Thống Nhất. Ngày thì vẽ thông tầm trong hầm lò ẩm ướt, tối tăm. Tối lại cùng đội văn nghệ xung kích đi biểu diễn khắp nơi. Cánh thợ mỏ xếp cho tôi vào loại “bậc 7” về ca hát và đệm đàn ghi ta. Xót xa nhất là mỗi sáng sớm chúng tôi lại phải viết những tấm bia mộ cho những người bị bom “tọa độ” sát hại vào đêm hôm trước. Lớp chúng tôi cũng từng “cắm chốt” và vẽ ở trận địa lão dân quân Hoàng Trường (Thanh Hóa). Những cụ cố “ăn sóng nói gió” này ngoài bảy mươi tuổi mà vẫn khỏe như vâm, vác súng 12 ly 7 chạy phăm phăm lên trận địa trên đồi cao. Nhớ nhất là “ vụ” Nguyễn Thanh Minh và Văn Thơ trổ tài “dân vận” với mấy cô ở cửa hàng mậu dịch để mua được mấy cân đường đỏ mang về nấu chè đậu “răng ngựa” làm cả lớp bị ngộ độc phải khiêng đi trạm xá. Chúng tôi cũng vẽ hàng tháng trời trận địa nữ dân quân Hậu Lộc, đơn vị nữ đầu tiên trên miền Bắc bắn rơi máy bay phản lực Mỹ bằng trọng liên 14 ly 5. Họ thật dễ thương và đáng cảm phục khiến tôi từng có những câu thơ: ... Em đẹp dịu dàng, hiền thảo, đảm đang Chỉ tiễn đưa nhau đã mau nước mắt Đối mặt giặc trời, em vẫn hiên ngang Say đắm bút màu ngày ấy vẽ em Như những Thiên Thần, như những nàng Tiên Gió biển ru êm những đêm trực chiến Thương đến đong đầy mỗi chút bình yên... Bước vào năm thứ 5, chúng tôi lại tỏa đi khắp nơi để thâm nhập, lấy tài ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
dấu ấn mỹ thuật mỹ thuật truyền thống mỹ thuật hiện đại họa sỹ việt nam nghiên cứu văn hóa kiến thức mỹ thuật trường phái nghệ thuậtTài liệu liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 342 0 0 -
Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ
8 trang 314 0 0 -
50 năm ngày Marilyn Monroe qua đời: Đẹp đến đau lòng
11 trang 149 0 0 -
6 trang 119 0 0
-
6 trang 86 0 0
-
7 trang 85 0 0
-
Văn hóa học: Culturology và Cultural studies
14 trang 68 0 0 -
Đào tạo ngành Kinh doanh xuất bản phẩm hướng tới sự hội tụ và phát triển bền vững
10 trang 66 0 0 -
Phong cách thể hiện ca khúc dân gian đương đại
7 trang 63 2 0 -
Văn hóa phi vật thể - linh hồn của di sản Tây Nguyên
3 trang 61 0 0