Vài nét về hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 140.58 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong mô tả về ngữ âm - âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn, đáng chú ý nhất là đặc trưng của những thanh có chất giọng thở hoặc hiện tượng tắc thanh hầu. Trên thực tế, một số thanh điệu tiếng Pà Thẻn không chỉ được nhận diện về âm vực và đường nét, mà còn có sự phân biệt ở chất giọng thở. Chính những tiêu chí khu biệt như kèm chất giọng thở hoặc tắc thanh hầu ở những mức độ khác nhau này đã giúp xác định được một hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn với số lượng khá phong phú: gồm 8 thanh điệu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vài nét về hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn Nguyễn Thu Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 31 - 36 VÀI NÉT VỀ HỆ THỐNG THANH ĐIỆU TIẾNG PÀ THẺN Nguyễn Thu Quỳnh* Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Trong mô tả về ngữ âm - âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn, đáng chú ý nhất là đặc trưng của những thanh có chất giọng thở hoặc hiện tượng tắc thanh hầu. Trên thực tế, một số thanh điệu tiếng Pà Thẻn không chỉ được nhận diện về âm vực và đường nét, mà còn có sự phân biệt ở chất giọng thở. Chính những tiêu chí khu biệt như kèm chất giọng thở hoặc tắc thanh hầu ở những mức độ khác nhau này đã giúp xác định được một hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn với số lượng khá phong phú: gồm 8 thanh điệu. Từ khóa: dân tộc, ngôn ngữ, Pà Thẻn, ngữ âm, thanh điệu ĐẶT VẤN ĐỀ* Pà Thẻn (cũng còn có tên gọi khác là Pà Hưng, Mèo Đỏ, Mèo Hoa, Mèo Lài, Mán Pa Sèng, Mán Pa Teng, Bát Tiên Tộc...) là một trong 54 dân tộc ở nước ta, có dân số là 5.569 người (Nguồn: thống kê năm 1999), cư trú chủ yếu ở hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Với số dân thuộc loại rất ít, lại sống xen kẽ với các dân tộc khác (Kinh, Tày, Hmông…), dân tộc Pà Thẻn hiện đang có nguy cơ mất dần những nét bản sắc trong văn hoá của mình hoặc bị pha trộn với các dân tộc khác. Tiếng Pà Thẻn cũng đứng trước tình trạng này: được sử dụng ít dần ở thế hệ trẻ, phạm vi giao tiếp có xu hướng bị thu hẹp, mức độ sử dụng ít đi, không có ngôn ngữ văn học… Chính vì vậy việc nghiên cứu tiếng Pà Thẻn có thể góp một phần giúp ngôn ngữ này thoát khỏi sự tiêu vong. Tuy nhiên, việc tìm hiểu ngôn ngữ Pà Thẻn từ trước đến nay chưa nhận được nhiều sự quan tâm đúng mức. Người đầu tiên nghiên cứu về tiếng Pà Thẻn ở Việt Nam là Nguyễn Minh Đức với bài viết Bước đầu tìm hiểu tiếng nói và chữ viết Pà Hưng (Pà Thẻn) (1972). Trong bài viết này, tác giả đó đề cập đến một vài nét về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và chữ viết của ngôn ngữ Pà Thẻn. Tại hội thảo quốc tế về Việt Nam học (15 - 17/7/1998), các tác giả J. A. Edmondson, K. J. Gregerson và Nguyễn Văn Lợi cũng trình bày báo cáo với nhan đề Vài khía cạnh của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở miền cực bắc Việt Nam: Dân tộc * Tel:0975459119 Đồng, Thuỷ, Pà Thẻn của hai tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang. Mục đích của nhóm tác giả báo cáo này là tìm kiếm ngôn ngữ nguyên bản của các dân tộc ở miền cực bắc Việt Nam, trong đó có dân tộc Pà Thẻn. Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi xin trình bày những hiểu biết ban đầu về hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn, một khía cạnh nhỏ trong ngữ âm tiếng Pà Thẻn - vấn đề mà lâu nay chưa được nhà nghiên cứu nào để tâm tìm hiểu. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU a. Thanh điệu và các tiêu chí khu biệt thanh điệu Trong ngữ âm học, thanh điệu được quan niệm là một âm vị siêu đoạn tính. Nó được biểu hiện trong toàn bộ âm tiết, chính xác hơn là trong toàn bộ phần thanh tính của âm tiết, là những biến đổi về độ cao của âm tiết kết hợp với các cấu âm đi kèm sự biến đổi này. Nói cách khác, thanh điệu là một đơn vị âm thanh tạo nên âm tiết, đồng thời có chức năng khu biệt ý nghĩa. Các thanh điệu có thể được phân biệt với nhau theo các tiêu chí âm vực và đường nét. Âm vực là độ cao của thanh điệu. Có nhiều cách khác nhau để xác định âm vực: dựa vào độ cao kết thúc của thanh điệu, hoặc dựa vào độ cao lúc mở đầu, hoặc căn cứ vào ấn tượng tổng quan… Đường nét là sự biến thiên của cao độ theo thời gian (còn gọi là “âm điệu”). Đường nét này có thể bằng phẳng hoặc không bằng phẳng, đi lên hoặc đi xuống. Vai trò khu biệt nghĩa của thanh điệu chủ yếu thuộc về âm vực và đường nét. Tuy nhiên, ở một số thanh còn xuất hiện thêm những cấu 31 Nguyễn Thu Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ âm bổ sung như hiện tượng nghẽn thanh hầu, kèm giọng thở… Những hiện tượng này cũng được coi là tiêu chí để khu biệt thanh điệu. Hiện tượng nghẽn thanh hầu là hiện tượng căng đặc biệt ở thanh hầu. Khi phát âm, có cảm giác tức ở thanh hầu do luồng không khí bị nghẽn lại, âm thanh đang phát ra bị mất đi, nhường chỗ cho một tiếng “rặn” nhỏ. Hiện tượng kèm giọng thở là hiện tượng xuất hiện khi gốc lưỡi nhích về phía trước một chút, tạo nên sự mở rộng khoang yết hầu cùng với tính chất sâu hơn tạo nên âm sắc trầm (hay tối, đục) và cả tiếng thì thào (hay thở, hà hơi). b. Hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn * Hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn theo những tài liệu trước đây Trong bài viết Bước đầu tìm hiểu tiếng nói và vấn đề chữ viết Pà Hưng (Pà Thẻn) in trong Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (1972), tác giả Nguyễn Minh Đức đã dành một phần để trình bày về thanh điệu. Theo ông, tiếng Pà Thẻn gồm có năm thanh điệu như sau: thanh 1 (bằng cao) - ɲi1 (đi), thanh 2 (bằng thấp) - ɲi2 (nông), thanh 3 (thanh trũng) - ɲi3 (râu), thanh 4 (thanh lên)ɲi4 (nghẹn), thanh 5 (thanh xuống) -ɲi5 (mang). pi1 tóc Tác giả Lí Vân Binh (Trung Quốc) cũng dành một phần nội dung trong công trình Bàn về vị trí Pà Hưng trong ngôn ngữ Mèo - Dao (1995) để nói về thanh điệu Pà Hưng (Pà Thẻn). Điều được tác giả Lí Vân ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vài nét về hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn Nguyễn Thu Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 31 - 36 VÀI NÉT VỀ HỆ THỐNG THANH ĐIỆU TIẾNG PÀ THẺN Nguyễn Thu Quỳnh* Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Trong mô tả về ngữ âm - âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn, đáng chú ý nhất là đặc trưng của những thanh có chất giọng thở hoặc hiện tượng tắc thanh hầu. Trên thực tế, một số thanh điệu tiếng Pà Thẻn không chỉ được nhận diện về âm vực và đường nét, mà còn có sự phân biệt ở chất giọng thở. Chính những tiêu chí khu biệt như kèm chất giọng thở hoặc tắc thanh hầu ở những mức độ khác nhau này đã giúp xác định được một hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn với số lượng khá phong phú: gồm 8 thanh điệu. Từ khóa: dân tộc, ngôn ngữ, Pà Thẻn, ngữ âm, thanh điệu ĐẶT VẤN ĐỀ* Pà Thẻn (cũng còn có tên gọi khác là Pà Hưng, Mèo Đỏ, Mèo Hoa, Mèo Lài, Mán Pa Sèng, Mán Pa Teng, Bát Tiên Tộc...) là một trong 54 dân tộc ở nước ta, có dân số là 5.569 người (Nguồn: thống kê năm 1999), cư trú chủ yếu ở hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Với số dân thuộc loại rất ít, lại sống xen kẽ với các dân tộc khác (Kinh, Tày, Hmông…), dân tộc Pà Thẻn hiện đang có nguy cơ mất dần những nét bản sắc trong văn hoá của mình hoặc bị pha trộn với các dân tộc khác. Tiếng Pà Thẻn cũng đứng trước tình trạng này: được sử dụng ít dần ở thế hệ trẻ, phạm vi giao tiếp có xu hướng bị thu hẹp, mức độ sử dụng ít đi, không có ngôn ngữ văn học… Chính vì vậy việc nghiên cứu tiếng Pà Thẻn có thể góp một phần giúp ngôn ngữ này thoát khỏi sự tiêu vong. Tuy nhiên, việc tìm hiểu ngôn ngữ Pà Thẻn từ trước đến nay chưa nhận được nhiều sự quan tâm đúng mức. Người đầu tiên nghiên cứu về tiếng Pà Thẻn ở Việt Nam là Nguyễn Minh Đức với bài viết Bước đầu tìm hiểu tiếng nói và chữ viết Pà Hưng (Pà Thẻn) (1972). Trong bài viết này, tác giả đó đề cập đến một vài nét về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và chữ viết của ngôn ngữ Pà Thẻn. Tại hội thảo quốc tế về Việt Nam học (15 - 17/7/1998), các tác giả J. A. Edmondson, K. J. Gregerson và Nguyễn Văn Lợi cũng trình bày báo cáo với nhan đề Vài khía cạnh của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở miền cực bắc Việt Nam: Dân tộc * Tel:0975459119 Đồng, Thuỷ, Pà Thẻn của hai tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang. Mục đích của nhóm tác giả báo cáo này là tìm kiếm ngôn ngữ nguyên bản của các dân tộc ở miền cực bắc Việt Nam, trong đó có dân tộc Pà Thẻn. Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi xin trình bày những hiểu biết ban đầu về hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn, một khía cạnh nhỏ trong ngữ âm tiếng Pà Thẻn - vấn đề mà lâu nay chưa được nhà nghiên cứu nào để tâm tìm hiểu. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU a. Thanh điệu và các tiêu chí khu biệt thanh điệu Trong ngữ âm học, thanh điệu được quan niệm là một âm vị siêu đoạn tính. Nó được biểu hiện trong toàn bộ âm tiết, chính xác hơn là trong toàn bộ phần thanh tính của âm tiết, là những biến đổi về độ cao của âm tiết kết hợp với các cấu âm đi kèm sự biến đổi này. Nói cách khác, thanh điệu là một đơn vị âm thanh tạo nên âm tiết, đồng thời có chức năng khu biệt ý nghĩa. Các thanh điệu có thể được phân biệt với nhau theo các tiêu chí âm vực và đường nét. Âm vực là độ cao của thanh điệu. Có nhiều cách khác nhau để xác định âm vực: dựa vào độ cao kết thúc của thanh điệu, hoặc dựa vào độ cao lúc mở đầu, hoặc căn cứ vào ấn tượng tổng quan… Đường nét là sự biến thiên của cao độ theo thời gian (còn gọi là “âm điệu”). Đường nét này có thể bằng phẳng hoặc không bằng phẳng, đi lên hoặc đi xuống. Vai trò khu biệt nghĩa của thanh điệu chủ yếu thuộc về âm vực và đường nét. Tuy nhiên, ở một số thanh còn xuất hiện thêm những cấu 31 Nguyễn Thu Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ âm bổ sung như hiện tượng nghẽn thanh hầu, kèm giọng thở… Những hiện tượng này cũng được coi là tiêu chí để khu biệt thanh điệu. Hiện tượng nghẽn thanh hầu là hiện tượng căng đặc biệt ở thanh hầu. Khi phát âm, có cảm giác tức ở thanh hầu do luồng không khí bị nghẽn lại, âm thanh đang phát ra bị mất đi, nhường chỗ cho một tiếng “rặn” nhỏ. Hiện tượng kèm giọng thở là hiện tượng xuất hiện khi gốc lưỡi nhích về phía trước một chút, tạo nên sự mở rộng khoang yết hầu cùng với tính chất sâu hơn tạo nên âm sắc trầm (hay tối, đục) và cả tiếng thì thào (hay thở, hà hơi). b. Hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn * Hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn theo những tài liệu trước đây Trong bài viết Bước đầu tìm hiểu tiếng nói và vấn đề chữ viết Pà Hưng (Pà Thẻn) in trong Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (1972), tác giả Nguyễn Minh Đức đã dành một phần để trình bày về thanh điệu. Theo ông, tiếng Pà Thẻn gồm có năm thanh điệu như sau: thanh 1 (bằng cao) - ɲi1 (đi), thanh 2 (bằng thấp) - ɲi2 (nông), thanh 3 (thanh trũng) - ɲi3 (râu), thanh 4 (thanh lên)ɲi4 (nghẹn), thanh 5 (thanh xuống) -ɲi5 (mang). pi1 tóc Tác giả Lí Vân Binh (Trung Quốc) cũng dành một phần nội dung trong công trình Bàn về vị trí Pà Hưng trong ngôn ngữ Mèo - Dao (1995) để nói về thanh điệu Pà Hưng (Pà Thẻn). Điều được tác giả Lí Vân ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn Hệ thống thanh điệu Tiếng Pà Thẻn Hiện tượng tắc thanh hầu Tỉnh Hà GiangGợi ý tài liệu liên quan:
-
Quyết định số 2198/2012/QĐ-UBND
5 trang 79 0 0 -
73 trang 74 0 0
-
89 trang 25 0 0
-
3 giải pháp chuẩn hóa âm lượng trên máy tính
3 trang 20 0 0 -
Một số biểu hiện về kỹ năng giao tiếp của học sinh trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Hà Giang
4 trang 20 0 0 -
Thực trạng về vị trí đặt dấu thanh điệu trong chữ
4 trang 18 0 0 -
79 trang 17 0 0
-
8 trang 16 0 0
-
8 trang 16 0 0
-
Indie Volume - Quản lý âm lượng cho từng ứng dụng
3 trang 15 0 0