Vai trò của đào tạo nhân lực kinh tế nông nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 274.54 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu hai vấn đề chính sau: (i) đánh giá thực trạng, những bất cập về nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp ở ĐBSCL; (ii) gợi mở một số giải pháp cấp bách thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ĐBSCL đến năm 2025 tầm nhìn 2030 là tập trung đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế, nhất là nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường, gắn phát triển nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò của đào tạo nhân lực kinh tế nông nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long hiện nay KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA: ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI VAI TRÒ CỦA ĐÀO TẠO NHÂN LỰC KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY TS.NCVC. Trần Văn Duy* TÓM TẮT Kết quả thống kê của ngành chức năng cho thấy, nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang ở mức thấp nhất so với mặt bằng chung của đất nước, cả về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật. Lực lượng lao động của ĐBSCL có hơn 10,3 triệu người, chiếm 19% lực lượng lao động của cả nước nhưng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chỉ đạt 10,4% (mức trung bình cả nước là gần 20%). Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho kinh tế - xã hội chậm tăng trưởng, cản trở quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và hội nhập quốc tế của ĐBSCL. Do đó, cần có những nghiên cứu toàn diện hơn về vấn đề này nhằm giải quyết tốt vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ĐBSCL, đây sẽ là động lực quan trọng, góp phần giúp ĐBSCL vươn lên mạnh mẽ. Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu hai vấn đề chính sau: (i) đánh giá thực trạng, những bất cập về nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp ở ĐBSCL; (ii) gợi mở một số giải pháp cấp bách thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ĐBSCL đến năm 2025 tầm nhìn 2030 là tập trung đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế, nhất là nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường, gắn phát triển nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Từ khóa: Ngành chức năng, nguồn nhân lực, kinh tế nông nghiệp, Đồng bằng sông Cửu Long. 1. Đánh giá thực trạng, bất cập về nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long Thứ nhất, ĐBSCL có lợi thế là khu vực có nguồn nhân lực dồi dào song chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có. Toàn vùng đã đạt được một số kết quả như: tạo việc làm bình quân hằng năm cho trên 395 nghìn người, tuyển sinh dạy nghề hằng năm gần 207 nghìn người, tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2013 giảm còn 7,41% (giảm 6,07% so với cuối năm 2010), các chính sách an sinh xã hội, ưu đãi người có công được quan tâm. ĐBSCL có lợi thế là khu vực có nguồn nhân lực dồi dào song chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của Vùng thấp hơn so với mức trung bình của cả nước gần 2%. Chất lượng trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề * Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam 73 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA: ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI nghiệp còn chưa đáp ứng được đòi hỏi thị trường lao động (tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2013 là 42,29% thấp hơn mức trung bình của cả nước). Đặc biệt, số lượng lao động đi làm việc nước ngoài còn thấp, toàn vùng bình quân mỗi năm chỉ có khoảng 2.000 người xuất khẩu lao động đi làm việc nước ngoài... Hiện tại, ĐBSCL có nguồn lao động dồi dào với hơn 10,3 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm 57,8% dân số. Toàn vùng có 369 cơ sở dạy nghề, gồm 14 trường cao đẳng nghề, 37 trường trung cấp nghề, 129 trung tâm dạy nghề và 189 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Năm 2018, đã tuyển sinh trên 187 ngàn người và có hơn 93 ngàn lao động được hỗ trợ học nghề theo Quyết định 1956/QDD-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Vùng chỉ đạt 10,4%; tỷ lệ thiếu việc làm chiếm 6% và thất nghiệp là 2,42%1. Thứ hai, trình độ chuyên môn và kỹ năng thực hành còn yếu, chưa đáp ứng được các yêu cầu của nền nông nghiệp 4.0. Công tác tư vấn, phân luồng đào tạo chưa được các cơ quan chức năng chú trọng, tâm lý người lao động chưa chủ động học nghề, chưa chủ động tìm kiếm việc làm... Hiện nay, nền nông nghiệp 4.0 đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao, thành thạo việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật… mới tạo được hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, thực tế của ĐBSCL cho thấy, trình độ chuyên môn của lao động khu vực kinh tế nông nghiệp còn thấp, hệ thống đào tạo nghề lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Trước tình trạng này, việc đổi mới phương pháp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp 4.0 đang là yêu cầu cấp bách đặt ra đối với các cấp, ngành chức năng của vùng ĐBSCL. Theo Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011, mục tiêu đặt ra là sẽ phát triển tỷ lệ nhân lực qua đào tạo khối ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng từ mức 15,5% năm 2010 lên khoảng 50% vào năm 2020. Tuy nhiên, dự báo đến năm 2020, nguồn nhân lực khối ngành này sẽ thiếu khoảng 3,2 triệu lao động qua đào tạo. Không những vậy, Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Ngoài ra, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ số cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam đạt 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế xếp thứ 73/133 quốc gia được xếp hạng. Theo báo cáo Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 thì năng suất lao động Việt Nam thấp hơn năng suất lao động của Trung Quốc 2,5 lần; thấp hơn Thái Lan 4,2 lần. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất lương thực, nuôi trồng, 1 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2018), Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện chính sách lao động, việc làm và dạy nghề tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nộ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò của đào tạo nhân lực kinh tế nông nghiệp tại đồng bằng sông Cửu Long hiện nay KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA: ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI VAI TRÒ CỦA ĐÀO TẠO NHÂN LỰC KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY TS.NCVC. Trần Văn Duy* TÓM TẮT Kết quả thống kê của ngành chức năng cho thấy, nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang ở mức thấp nhất so với mặt bằng chung của đất nước, cả về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật. Lực lượng lao động của ĐBSCL có hơn 10,3 triệu người, chiếm 19% lực lượng lao động của cả nước nhưng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chỉ đạt 10,4% (mức trung bình cả nước là gần 20%). Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho kinh tế - xã hội chậm tăng trưởng, cản trở quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và hội nhập quốc tế của ĐBSCL. Do đó, cần có những nghiên cứu toàn diện hơn về vấn đề này nhằm giải quyết tốt vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ĐBSCL, đây sẽ là động lực quan trọng, góp phần giúp ĐBSCL vươn lên mạnh mẽ. Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu hai vấn đề chính sau: (i) đánh giá thực trạng, những bất cập về nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp ở ĐBSCL; (ii) gợi mở một số giải pháp cấp bách thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ĐBSCL đến năm 2025 tầm nhìn 2030 là tập trung đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế, nhất là nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường, gắn phát triển nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Từ khóa: Ngành chức năng, nguồn nhân lực, kinh tế nông nghiệp, Đồng bằng sông Cửu Long. 1. Đánh giá thực trạng, bất cập về nguồn nhân lực phục vụ ngành kinh tế nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long Thứ nhất, ĐBSCL có lợi thế là khu vực có nguồn nhân lực dồi dào song chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có. Toàn vùng đã đạt được một số kết quả như: tạo việc làm bình quân hằng năm cho trên 395 nghìn người, tuyển sinh dạy nghề hằng năm gần 207 nghìn người, tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2013 giảm còn 7,41% (giảm 6,07% so với cuối năm 2010), các chính sách an sinh xã hội, ưu đãi người có công được quan tâm. ĐBSCL có lợi thế là khu vực có nguồn nhân lực dồi dào song chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của Vùng thấp hơn so với mức trung bình của cả nước gần 2%. Chất lượng trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề * Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam 73 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA: ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI nghiệp còn chưa đáp ứng được đòi hỏi thị trường lao động (tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2013 là 42,29% thấp hơn mức trung bình của cả nước). Đặc biệt, số lượng lao động đi làm việc nước ngoài còn thấp, toàn vùng bình quân mỗi năm chỉ có khoảng 2.000 người xuất khẩu lao động đi làm việc nước ngoài... Hiện tại, ĐBSCL có nguồn lao động dồi dào với hơn 10,3 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm 57,8% dân số. Toàn vùng có 369 cơ sở dạy nghề, gồm 14 trường cao đẳng nghề, 37 trường trung cấp nghề, 129 trung tâm dạy nghề và 189 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Năm 2018, đã tuyển sinh trên 187 ngàn người và có hơn 93 ngàn lao động được hỗ trợ học nghề theo Quyết định 1956/QDD-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Vùng chỉ đạt 10,4%; tỷ lệ thiếu việc làm chiếm 6% và thất nghiệp là 2,42%1. Thứ hai, trình độ chuyên môn và kỹ năng thực hành còn yếu, chưa đáp ứng được các yêu cầu của nền nông nghiệp 4.0. Công tác tư vấn, phân luồng đào tạo chưa được các cơ quan chức năng chú trọng, tâm lý người lao động chưa chủ động học nghề, chưa chủ động tìm kiếm việc làm... Hiện nay, nền nông nghiệp 4.0 đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao, thành thạo việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật… mới tạo được hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, thực tế của ĐBSCL cho thấy, trình độ chuyên môn của lao động khu vực kinh tế nông nghiệp còn thấp, hệ thống đào tạo nghề lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Trước tình trạng này, việc đổi mới phương pháp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp 4.0 đang là yêu cầu cấp bách đặt ra đối với các cấp, ngành chức năng của vùng ĐBSCL. Theo Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011, mục tiêu đặt ra là sẽ phát triển tỷ lệ nhân lực qua đào tạo khối ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng từ mức 15,5% năm 2010 lên khoảng 50% vào năm 2020. Tuy nhiên, dự báo đến năm 2020, nguồn nhân lực khối ngành này sẽ thiếu khoảng 3,2 triệu lao động qua đào tạo. Không những vậy, Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Ngoài ra, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ số cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam đạt 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế xếp thứ 73/133 quốc gia được xếp hạng. Theo báo cáo Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 thì năng suất lao động Việt Nam thấp hơn năng suất lao động của Trung Quốc 2,5 lần; thấp hơn Thái Lan 4,2 lần. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất lương thực, nuôi trồng, 1 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2018), Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện chính sách lao động, việc làm và dạy nghề tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nộ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Kinh tế nông nghiệp Đào tạo nhân lực kinh tế nông nghiệp Kinh tế nông nghiệp chất lượng cao Hiện đại hóa nông nghiệp Khu vực kinh tế nông nghiệpGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân ở huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội
8 trang 256 0 0 -
5 trang 123 0 0
-
124 trang 110 0 0
-
18 trang 106 0 0
-
Bài giảng Kinh tế hộ nông dân và kinh tế trang trại: Chương 1
52 trang 94 1 0 -
68 trang 92 0 0
-
Giáo trình Kinh tế phát triển (Nghề: Kế toán doanh nghiệp) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình
117 trang 81 0 0 -
Cơ sở lý luận_ chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong ngành thủy sản 1
30 trang 77 0 0 -
Bài giảng Kinh tế nông nghiệp (Dùng cho các lớp cao học) - ĐH Thủy lợi
174 trang 70 0 0 -
81 trang 61 0 0