Thông tin tài liệu:
Trong cuốn sách “The Fall of Advertising and the Rise of PR” (tạm dịch: Quảng cáo thoái vị, PR lên ngôi) xuất bản năm 2002, Laura và Al Ries đã tranh luận rằng quan hệ công chúng (PR) quan trọng hơn quảng cáo khi xây dựng một thương hiệu.
Tại thời điểm đó, họ đã đúng; trong thời kỳ hậu dot com, quảng cáo thực sự mất đi tính tin cậy mặc dù truyền thông vẫn không thể thiếu nó. Nhưng năm 2006, người ta không thể dám chắc nữa: trong một kỷ nguyên mà tin tức dưới dạng video thường...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò thực sự của quan hệ công chúng trong xây dựng thương hiệu.
Vai trò thực sự của quan hệ công chúng
trong xây dựng thương hiệu.
Trong cuốn sách “The Fall of
Advertising and the Rise of PR” (tạm
dịch: Quảng cáo thoái vị, PR lên ngôi)
xuất bản năm 2002, Laura và Al Ries đã
tranh luận rằng quan hệ công chúng (PR)
quan trọng hơn quảng cáo khi xây dựng
một thương hiệu.
Tại thời điểm đó, họ đã đúng; trong thời kỳ hậu dot com, quảng cáo thực sự mất đi tính
tin cậy mặc dù truyền thông vẫn không thể thiếu nó. Nhưng năm 2006, người ta không
thể dám chắc nữa: trong một kỷ nguyên mà tin tức dưới dạng video thường xuyên được
thông cáo thay thế tin tức thực, theo báo cáo của Trung tâm Truyền thông và Dân chủ,
người ta bắt đầu hoài nghi về mục đích của truyền thông.
Truyền thông liên tục phải chịu áp lực để đạt được thoả hiệp tính minh bạch. Tuy nhiên,
tin tức là một nhu cầu không bao giờ thiếu, đôi khi là 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần.
Thêm vào đó, các kênh truyền thông thuộc sở hữu của những doanh nghiệp siêu “khủng”,
những doanh nghiêp kinh doanh trước tiên là để kiếm lợi nhuận: truyền thông kiếm tiền
nhờ bán thời gian phát sóng và không gian quảng cáo cho các nhà quảng cáo. Hai nhân tố
này kết hợp với nhau, cùng với bất cứ định kiến nội tại nào đối với bản thân văn hoá
truyền thông (như Fox News) khiến truyền thông dễ bị tổn thương trước những thông cáo
báo chí và các nội dung sẵn có khác mà các hãng tư nhân kết hợp lại với hi vọng tạo ấn
tượng với khách hàng, đặc biệt là những người sẵn sàng mua thời lượng và không gian
quảng cáo. Người ta không hề ngu ngốc. Khi một đoạn chương trình truyền hình về sức
khoẻ được tài trợ bởi chính nhà sản xuất nó, đơn vị truyền thông phát sóng đoạn chương
trình này sẽ bị mất uy tín.
Nếu truyền thông thoả hiệp về tính tin cậy thì Ries và luận điểm của ông sẽ trở thành:
không có uy tín = không có thương hiệu. Nhưng có một thứ có thể vượt xa điều này. Tôi
cho rằng vai trò của PR không thực sự là xây dựng thương hiệu. Thay vào đó, PR không
gây ảnh hưởng xấu nào đến thương hiệu. PR vốn là một công cụ xây dựng danh tiếng,
như trong bài “A strong corporate reputation is increasingly a PR responsibility” (tạm
dịch: Danh tiếng của một doanh nghiệp mạnh là trách nhiệm ngày càng gia tăng của PR),
PRinfluences.au đã viết: “Hình ảnh có thể … được tạo dựng thông qua một chiến dịch
quảng cáo hoặc một tài liệu doanh nghiệp hoặc một cái nhìn vào hình ảnh trụ sở doanh
nghiệp … (trong khi) danh tiếng … được xây dựng bằng cách phát triển các mối quan hệ
và những gì tổ chức thực hiện. Đó phần lớn là những gì người ta nói về bạn.” Từ đó cho
thấy một điều PR phát triển danh tiếng để bảo vệ thương hiệu.
Hãy làm rõ: Danh tiếng – có thể được định nghĩa thoáng là sự tin cậy – không phải là
thương hiệu. Thương hiệu là hình ảnh trong khi danh tiếng là thực tế. Điều này có nghĩa
là tất cả mọi người đều biết thương hiệu là giả tạo hoặc có chứa yếu tố giả tạo còn danh
tiếng thì gần với sự thật hơn. Do đó, thương hiệu được truyền thông tốt nhất bằng một
“thông điệp cốt lõi” của kinh doanh/marketing/quảng cáo trong khi danh tiếng được
truyền tải hiệu quả nhất thông qua tính minh bạch.
Giờ đây tính minh bạch, vốn là công việc thực sự của các chuyên gia quan hệ công chúng
(mặc dù chúng có thể không có khả năng bộc lộ trong thực tiễn), có nghĩa là nói sự thật,
không gì ngoài sự thật về doanh nghiệp và từ đó cho thấy doanh nghiệp là một thực thể
đáng tin cậy. Vì vậy, PR thực ra đối lập với xây dựng thương hiệu – thường chỉ nói một
phần sự thật và thậm chí có tính chất tuyên truyền. Thực chất, xây dựng thương hiệu đơn
thuần là bán hàng, nhằm mục đích tìm kiếm một chỗ đứng trong tâm trí khách hàng mục
tiêu. Bất kể họ được viết như thế nào trên tờ Wall Street Journal hay Fortune, những
thương hiệu như Nike, Disney, Starbucks và Coca-Cola có rất ít việc để làm với bản thân
doanh nghiệp nhưng lại có rất nhiều thứ phải làm với hình ảnh mà họ đưa ra ngoài công
chúng.
Có một ngoại lệ và đó chính là nơi PR và tính minh bạch cùng xuất hiện. Như đã đề cập ở
trên, PR sử dụng tính minh bạch để xây dựng danh tiếng của một thương hiệu, để cách ly
hình ảnh thương hiệu với những nguy cơ chống phá. Vì vậy khi Starbucks bắt tay vào
chiến dịch công dân doanh nghiệp với sự chi phối của PR như “hội chợ hạt cà phê”, hiệu
ứng không phải để xây dựng thương hiệu mà là nâng cao danh tiếng công ty. Hãy đối
diễn với nó: Starbucks không thu được 2 đôla cho mỗi cốc cà phê bởi chính sách hạt cà
phê của công ty này, nhưng hơn thế, là bởi Starbucks thể hiện một cái gì đó hoàn toàn
khác biệt và độc đáo: “thời gian cho chính bản thân”. Và thương hiệu Starbucks trước
tiên được xây dựng bởi tất cả các hoạt động mà họ đã tiến hành để quảng bá cho hình ảnh
này. Một số ví dụ như những mẫu quảng cáo truyền hình, một quảng cáo thể hiện một
người mẹ đang bị quấy rầy vẫn dành thời gian cho một tách Frappuccino, một quảng cáo
khác lại minh hoạ một người công nhân trẻ đang vội vã đến văn phòng nhưng vẫn dành
thời gian cho một cốc DoubleShot espresso đông lạnh của Starbucks.
Để nhắc lại: Lý do duy nhất cho các hoạt động xây dựng danh tiếng, hoặc PR, là để bảo
vệ thương hiệu khỏi bị tàn phá bởi các vụ bê bối. Nike chưa phải là bậc thầy ở khía cạnh
này và hình ảnh “just do it” (tạm dịch: Hãy hành động đi) đã bị ảnh hưởng không nhỏ từ
vụ việc bóc lột công nhân lao động. Câu chuyện minh hoạ là một sinh viên của MIT
muốn tìm cách cá nhân hoá đôi giầy Nike với cụm từ “bóc lột lao động” và đã bị từ chối.
Theo quan điểm của tôi, thách thức mà cậu ta đặt ra cho danh tiếng của công ty đã thực
sự phá hủy thương hiệu Nike bởi Nike không hề phản biện hiệu quả về ...