Danh mục

Vấn đề trong luật dân sự 4

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 221.24 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo tài liệu vấn đề trong luật dân sự 4, tài chính - ngân hàng, kế toán - kiểm toán phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vấn đề trong luật dân sự 43. Ðặt tênTên ở Việt Nam đi sau họ và được sử dụng để xưng hô, cả trongquan hệ xã giao hoặc gia đình, bè bạn, và cả theo nghĩa nghiêmtrang lẫn theo nghĩa thân mật3[3].Nguyên tắc tự do đặt tên. Khác với họ (được đặt theo họ cha,họ mẹ hoặc theo quyết định của cơ quan hộ tịch, trong trườnghợp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi và không có người nhận nuôi), tên3[3] Ở phương Tây, tên dùng để xưng hô thân mật; còn họ dùng để xưng hô theo nghi thức, theophép lịch sự hoặc trong các quan hệ xã giao.Có kiến cho rằng người Việt Nam dùng tên cả trong xưng hô trang trọng, bởi vì tên Việt Nam rấtđa dạng và có tác dụng phân biệt được cá nhân, trong khi họ lại không được đa dạng lắm. Ý kiếnnày không tỏ ra thuyết phục, bởi Trung Quốc cũng có nhiều t ên và không có nhiều họ như ở ViệtNam, nhưng người Trung Quốc lại có thói quen dùng họ để xưng hô trang trọng như ngườiphưong Tây. Trong tập quán giao tiếp hiện đại ở Việt Nam, việc xưng hô trang trọng đang dần dần được đặctrưng bằng việc xướng cả họ và tên.của cá nhân do người khai sinh cho cá nhân lựa chọn theo ýmình. Tục lệ có can thiệp vào việc đặt tên, còn luật viết chưa cóquy định cụ thể ở điểm này. Thông thường, cá nhân được đặt tênlựa chọn giữa các tên thông dụng (Hùng, Dũng, Minh, Hồng,Tuyết,...). Những tên lạ cũng có thể được chấp nhận. Có nhữngtên rất buồn cười cũng được ghi nhận; nhưng, dù luật khôngchính thức cấm, có vẻ như không thể đặt tên cho cá nhân bằngnhững từ dùng để chưởi rủa hoặc bằng những từ thuộc nhómngôn ngữ hạ cấp4[4].Trên nguyên tắc, tên được đặt, trong khung cảnh của thực tiễn vàtập quán hộ tịch, phải là tên bằng tiếng Việt, đối với người được4[4] Trước những yêu cầu đặt tên như thế, thì thường viên chức hộ tịch sẽ thuyết phục người đặttên thay đổi yêu cầu của mình. Nhưng nếu không thành công, thì ta chưa hình dung được thái độxử sự mà viên chức hộ tịch có thể lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật.khai sinh mang quốc tịch Việt Nam và thuộc dân tộc kinh. Ngườithuộc dân tộc thiểu số hoặc người nước ngoài có thể mang tênphù hợp với ngôn ngữ của dân tộc mình, của nước mình; nhưngnếu chữ viết của ngôn ngữ đó không phải là chữ Latinh, thì tênđó phải được phiên âm bằng chữ Latinh5[5]. Dẫu sao, không thểcoi là trái pháp luật hoặc trái đạo đức một nguyện vọng đặt tênbằng tiếng nước ngoài cho người có quốc tịch Việt Nam, nhất làtrong điều kiện người được khai sinh có mang dòng máu của dântộc sử dụng ngôn ngữ có tên đó. Cá biệt, có trường hợp tên đọcđược theo tiếng Việt, nhưng lại không tuân theo các quy luật cấutạo từ ngữ tiếng Việt, không được ghi nhận trong từ điển tiếngViệt, cũng không phải là tên có nguồn gốc từ ngôn ngữ của dân5[5] Ví dụ, Hồ Dzếnh.tộc ít người hoặc từ tiếng nước ngoài6[6]; những tên như vậycũng có thể được chấp nhận.B. Thay đổi họ và tênThay đổi họ. Theo khoản 1 Ðiều 29 BLDS, việc thay đổi họ đượccho phép trong những trường hợp sau đây: 1 - Theo yêu cầu củađương sự, mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởngđến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền và lợi ích hợp phápcủa mình; 2 - Theo yêu cầu của cha, mẹ nuôi về việc thay đổi họ,tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi6[6] Ví dụ, Phan Văn Din. Trong khá nhiều trường hợp, những tên như thế thường có nguồn gốctừ sai lầm của viên chức hộ tịch trong việc ghi lại một t ên mà thực ra rất bình thường: Phan VănDin có thể đúng ra là Phan Văn Diên, Diện,...và người này hoặc cha, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ tên mà cha, mẹđẻ đã đặt; 3 - Theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người con khi xácđịnh cha, mẹ cho con; 4 - Thay đổi họ cho con từ họ của chasang họ của mẹ hoặc ngược lại; 5 - Thay đổi họ, tên của người bịlưu lạc từ nhỏ mà tìm ra nguồn gốc truyền thống của mình; 5 -Các trường hợp khác do pháp luật quy định. Luật nói thêm rằngviệc thay đổi họ, tên cho người có đủ chín tuổi trở lên phải có sựđồng ý của người đó. Ta có nhận xét: - Việc thay đổi họ, trong luật Việt Nam, chỉ được thực hiện trên cơ sở có yêu cầu của những người có liên quan chứ không bao giờ là hệ quả đương nhiên của một giao dịch hoặc một sự kiện pháp lý (ví dụ, nhận con nuôi). - Trường hợp thứ nhất ghi trên, theo tập quán, chỉ được áp dụng đối với việc thay đổi tên: “họ” trước hết là một giá trị tinh thần, giá trị đạo đức; thay đổi họ với lý do rằng mang một họ nào đó, thì sẽ bị mất danh dự... là một thái độ phủ nhận nguồn gốc và bị coi như phi đạo đức. - Việc thay đổi họ của người dưới 18 tuổi được thực hiện theo đơn yêu cầu của cha, mẹ (Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998 Điều 53 khoản 2). Đối với người từ đủ 9 tuổi trở lên, thì phải có sự đồng ý của người đó (cùng điều luật).Thay đổi tên. Việc thay đổi tên được cho phép trong nhữngtrường hợp tương tự như đối với việc thay đổi họ. Việc thay đổi ...

Tài liệu được xem nhiều: