Vận dụng các kiến thức của môn triết học trong học tập và nghiên cứu nguyên lý kế toán
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 203.34 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong bài viết sẽ trao đổi về vận dụng triết học nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng trong nghiên cứu môn học nguyên lý kế toán. Để hiểu rõ hơn, mời các bạn tham khảo chi tiết nội dung bài viết này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vận dụng các kiến thức của môn triết học trong học tập và nghiên cứu nguyên lý kế toán KHOA KẾ TOÁN HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN VẬN DỤNG CÁC KIẾN THỨC CỦA MÔN TRIẾT HỌC TRONG HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU NGUYÊN LÝ KẾ TOÁN Hoàng Thị Hạnh CQ52/21.19 Tổng quan về triết học trong môn học nguyên lý kế toán Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức và ngôn ngữ. Triết học được gọi là khoa học của các khoa học, trong triết học chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng, triết học Mac-Lenin chung có vị trí hết sức quan trong trong khoa học và cuộc sống. Những tri thức của triết học đang là công cụ tư duy sắc bén để con người nhận thức và cải tạo thế giới, đang được vận dụng hằng ngày vào các lĩnh vực hoạt động của con người. Trong bài viết sẽ trao đổi về vận dụng triết học nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng trong nghiên cứu môn học nguyên lý kế toán. Vận dụng triết học trong nguyên lý kế toán Kế toán là quá trình thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin kế toán tài chính cho các đối tượng sử dụng thông tin giúp họ đưa ra những quyết định kinh tế hiệu quả liên quan đến đơn vị kế toán. Nguyên lý kế toán ra đời gắn liền với quá trình tái sản xuất. Nó là tất yếu khách quan của mọi hình thái kinh tế xã hội. Lịch sử hình thành nguyên lý kế toán vận hành theo quá trình của nhận thức từ trực quan đến tư duy trừu tượng, ban đầu kế toán được hình thành từ những quan sát, đo lường của con người đối với kết quả lao động của họ. Sản xuất xã hội phát triển kéo theo sự phát triển của kế toán, ở hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa kế toán được phát triển thành một khoa học. Ngày nay, khoa học kế toán được hiểu là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động. 78 KHOA KẾ TOÁN HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN Phương pháp biện chứng của triết học khẳng định rằng mọi sự vật và hiện tượng luôn có mối quan hệ với nhau trong trạng thái vận động biến đổi để phát triển mà nguồn gốc của nó là sự đấu tranh của các mặt đối lập. Điều này được thể hiện rõ trong từng nội dung của nguyên lý kế toán. Cụ thể: Thứ nhất, vận dụng hai nguyên lý của triết học là mối liên hệ phổ biến và sự phát triển để nghiên cứu về nguyên lý kế toán chúng ta thấy rằng các nội dung cơ bản như khái niệm, bản chất, tài khoản hay chứng từ, tính giá hoặc báo cáo kế toán… đều có mối liên hệ rất chặt chẽ, mật thiết với nhau. Các nội dung của nguyên lý kế toán được xâu chuỗi với nhau, xuất phát từ cách phân loại kế toán ảnh hưởng bởi nguyên tắc kế toán, đối tượng kế toán là cơ sở xác định tài khoản, chứng từ kế toán phục vụ cho việc tính giá, ghi sổ kế toán và cung cấp thông tin qua các báo cáo kế toán. Báo cáo kế toán là sản phẩm cuối cùng của chu trình kế toán, là bức tranh phản ánh một cách tổng quát nhất tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ hai, sự chi phối của triết học trong nguyên lý kế toán thể hiện qua cách xây dựng kết cấu của tài khoản, người ta dựa vào quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Mặc dù các đối tượng kế toán cụ thể được phản ánh trên những tài khoản khác nhau, có nội dung kinh tế, mục đích sử dụng, yêu cầu quản lý và tên gọi khác nhau nhưng xét về mặt bản chất vận động thì bất kỳ đối tượng kế toán nào cũng vận động theo hai mặt đối lập. Do đó, tài khoản kế toán được kết cấu theo kiểu hai bên chữ T phản ánh hai mặt vận động của cùng một đối tượng kế toán đó là bên “Nợ” và bên “Có”. Quy luật mâu thuẫn còn được thể hiện trong kế toán về các đối tượng kế toán khác nhau (phạm trù cái chung) như tài sản-nguồn vốn, doanh thu - chi phí. Xuất phát từ quy luật này mà các nhà khoa học về kế toán đã xây dựng nên quy ước ghi chép trên mỗi tài khoản (phạm trù cái riêng). Quy ước đó là: Tài khoản tài sản: có số dư bên Nợ, ghi nhận tăng bên Nợ, ghi giảm bên Có. Tài khoản nguồn vốn; có só dư bên Có, ghi nhận tăng bên Có, ghi giảm bên Nợ. 79 KHOA KẾ TOÁN HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN Tài khoản chi phí; có kết cấu tương tự tài sản là ghi tăng bên Nợ, ghi giảm bên Có, nhưng không có số dư. Tài khoản doanh thu: có kết cấu tương tự nguồn vốn là ghi tăng bên Có, ghi giảm bên Nợ, nhưng không có só dư. Những mặt đối lập này trong nguyên lý kế toán tạo nên mâu thuẫn, nó vừa thống nhất, vừa chuyển hóa lẫn nhâu làm cho đối tượng kế toán luôn luôn vận ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vận dụng các kiến thức của môn triết học trong học tập và nghiên cứu nguyên lý kế toán KHOA KẾ TOÁN HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN VẬN DỤNG CÁC KIẾN THỨC CỦA MÔN TRIẾT HỌC TRONG HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU NGUYÊN LÝ KẾ TOÁN Hoàng Thị Hạnh CQ52/21.19 Tổng quan về triết học trong môn học nguyên lý kế toán Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức và ngôn ngữ. Triết học được gọi là khoa học của các khoa học, trong triết học chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng, triết học Mac-Lenin chung có vị trí hết sức quan trong trong khoa học và cuộc sống. Những tri thức của triết học đang là công cụ tư duy sắc bén để con người nhận thức và cải tạo thế giới, đang được vận dụng hằng ngày vào các lĩnh vực hoạt động của con người. Trong bài viết sẽ trao đổi về vận dụng triết học nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng trong nghiên cứu môn học nguyên lý kế toán. Vận dụng triết học trong nguyên lý kế toán Kế toán là quá trình thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin kế toán tài chính cho các đối tượng sử dụng thông tin giúp họ đưa ra những quyết định kinh tế hiệu quả liên quan đến đơn vị kế toán. Nguyên lý kế toán ra đời gắn liền với quá trình tái sản xuất. Nó là tất yếu khách quan của mọi hình thái kinh tế xã hội. Lịch sử hình thành nguyên lý kế toán vận hành theo quá trình của nhận thức từ trực quan đến tư duy trừu tượng, ban đầu kế toán được hình thành từ những quan sát, đo lường của con người đối với kết quả lao động của họ. Sản xuất xã hội phát triển kéo theo sự phát triển của kế toán, ở hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa kế toán được phát triển thành một khoa học. Ngày nay, khoa học kế toán được hiểu là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động. 78 KHOA KẾ TOÁN HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN Phương pháp biện chứng của triết học khẳng định rằng mọi sự vật và hiện tượng luôn có mối quan hệ với nhau trong trạng thái vận động biến đổi để phát triển mà nguồn gốc của nó là sự đấu tranh của các mặt đối lập. Điều này được thể hiện rõ trong từng nội dung của nguyên lý kế toán. Cụ thể: Thứ nhất, vận dụng hai nguyên lý của triết học là mối liên hệ phổ biến và sự phát triển để nghiên cứu về nguyên lý kế toán chúng ta thấy rằng các nội dung cơ bản như khái niệm, bản chất, tài khoản hay chứng từ, tính giá hoặc báo cáo kế toán… đều có mối liên hệ rất chặt chẽ, mật thiết với nhau. Các nội dung của nguyên lý kế toán được xâu chuỗi với nhau, xuất phát từ cách phân loại kế toán ảnh hưởng bởi nguyên tắc kế toán, đối tượng kế toán là cơ sở xác định tài khoản, chứng từ kế toán phục vụ cho việc tính giá, ghi sổ kế toán và cung cấp thông tin qua các báo cáo kế toán. Báo cáo kế toán là sản phẩm cuối cùng của chu trình kế toán, là bức tranh phản ánh một cách tổng quát nhất tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ hai, sự chi phối của triết học trong nguyên lý kế toán thể hiện qua cách xây dựng kết cấu của tài khoản, người ta dựa vào quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Mặc dù các đối tượng kế toán cụ thể được phản ánh trên những tài khoản khác nhau, có nội dung kinh tế, mục đích sử dụng, yêu cầu quản lý và tên gọi khác nhau nhưng xét về mặt bản chất vận động thì bất kỳ đối tượng kế toán nào cũng vận động theo hai mặt đối lập. Do đó, tài khoản kế toán được kết cấu theo kiểu hai bên chữ T phản ánh hai mặt vận động của cùng một đối tượng kế toán đó là bên “Nợ” và bên “Có”. Quy luật mâu thuẫn còn được thể hiện trong kế toán về các đối tượng kế toán khác nhau (phạm trù cái chung) như tài sản-nguồn vốn, doanh thu - chi phí. Xuất phát từ quy luật này mà các nhà khoa học về kế toán đã xây dựng nên quy ước ghi chép trên mỗi tài khoản (phạm trù cái riêng). Quy ước đó là: Tài khoản tài sản: có số dư bên Nợ, ghi nhận tăng bên Nợ, ghi giảm bên Có. Tài khoản nguồn vốn; có só dư bên Có, ghi nhận tăng bên Có, ghi giảm bên Nợ. 79 KHOA KẾ TOÁN HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN Tài khoản chi phí; có kết cấu tương tự tài sản là ghi tăng bên Nợ, ghi giảm bên Có, nhưng không có số dư. Tài khoản doanh thu: có kết cấu tương tự nguồn vốn là ghi tăng bên Có, ghi giảm bên Nợ, nhưng không có só dư. Những mặt đối lập này trong nguyên lý kế toán tạo nên mâu thuẫn, nó vừa thống nhất, vừa chuyển hóa lẫn nhâu làm cho đối tượng kế toán luôn luôn vận ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nguyên lý kế toán Báo cáo tài chính Triết học Mac-Lenin Đơn vị kế toán Nghiệp vụ kế toánTài liệu liên quan:
-
18 trang 462 0 0
-
Phương pháp phân tích báo cáo tài chính: Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Ngọc Quang
175 trang 385 1 0 -
Các bước trong phương pháp phân tích báo cáo tài chính đúng chuẩn
5 trang 295 0 0 -
Giáo trình Phân tích báo cáo tài chính (Tái bản lần thứ ba): Phần 2
194 trang 295 1 0 -
3 trang 279 12 0
-
Giáo trình Phân tích báo cáo tài chính: Phần 2 (Tái bản lần thứ nhất)
388 trang 276 1 0 -
Bài giảng: Chương 2: Bảo hiểm hàng hải
94 trang 275 1 0 -
Kế toán cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp
52 trang 255 0 0 -
Sử dụng phương pháp WebQuest trong dạy học học phần Triết học Mác-Lênin
4 trang 247 0 0 -
88 trang 235 1 0