Vận dụng giá cả thị trường để định giá đầu vào (Phần 2)
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 353.68 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Vận dụng giá cả thị trường để định giá đầu vào (Phần 2)
Độc quyền hay công ty với sức mạnh thị trường lớn Nếu một công ty cung cấp một đầu-vào có sức mạnh thị trường đáng kể thì mức giá có thể sẽ lớn hơn chi phí cận biên. Trong trường hợp như vậy, nên định giá mức cắt giảm tiêu dùng tư theo mức giá thị trường. Nó sẽ ngang bằng với mức sẵn sàng chi trả của người tiêu dùng như được đo lường bởi đường cầu trước khi tiến hành dự án. Nên xác định giá...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vận dụng giá cả thị trường để định giá đầu vào (Phần 2) Vận dụng giá cả thị trường để định giá đầu vào (Phần 2) Độc quyền hay công ty với sức mạnh thị trường lớn Nếu một công ty cung cấp một đầu-vào có sức mạnh thị trường đáng kể thì mức giá có thể sẽ lớn hơn chi phí cận biên. Trong trường hợp như vậy, nên định giá mức cắt giảm tiêu dùng tư theo mức giá thị trường. Nó sẽ ngang bằng với mức sẵn sàng chi trả của người tiêu dùng như được đo lường bởi đường cầu trước khi tiến hành dự án. Nên xác định giá trị của bất kỳ sản lượng gia tăng nào tại mức chi phí cận biên của sản xuất. Sự khác biệt của mức giá được trả và chi phí cận biên của đầu ra tăng thêm là lợi nhuận tăng thêm mà công ty độc quyền thu được. Chừng nào công ty độc quyền (hay chính xác hơn là chủ hay cổ đông của các công ty độc quyền) có vị thế thì toàn bộ mức giá trả cho đầu ra tăng thêm là chi phí hợp lý. Hình 4-4 minh hoạ một công ty độc quyền với đường chi phí cận biên MC của việc cung cấp một đầu-vào. Tác động của dự án là tăng cầu (và doanh thu cận biên tương ứng) từ mức D lên D'. Kết quả của việc cầu tăng là mức giá tối đa hoá lợi ích của công ty độc quyền tăng từ mức P0 lên P1. Tổng lượng hàng hoá được làm ra tăng từ Q0 lên Qt trong khi lượng sản phẩm người tiêu dùng tư yêu cầu giảm từ Q0 xuống Qp. Cần định giá sản lượng gia tăng theo giá trị cận biên của người tiêu dùng như thể hiện ở phía bên trái của vùng bôi thẫm. Hình 4-4 Cũng như đối với thuế và các tác nhân ngoại sinh, việc tính toán chi phí của một đầu-vào do một hãng độc quyền cung cấp đòi hỏi phải đưa ra một giả định về các kích cỡ tương ứng của mức tăng sản lượng và giảm tiêu dùng tư. Nếu dự án mua đầu-vào thông qua các thị trường thông thường thì có khả năng có một sự khác biệt nhất định giữa sản xuất gia tăng và tiêu dùng tư bị cắt giảm. Tuy nhiên, một dự án có thể mua một lượng đầu-vào lớn từ một công ty độc quyền sẽ thương thuyết một mức giá độc lập với mức giá thị trường. Đây là hình thức phân biệt giá của hãng độc quyền. Trong trường hợp như vậy lượng đầu-vào của một dự án có thể chỉ có được từ sản lượng tăng thêm chứ không phải là tiêu dùng bị cắt giảm đi. Ví dụ: Bất kỳ một dự án tiêm phòng miễn dịch đối với một căn bệnh nào cũng sẽ dùng một lượng vắc-xin tiêm phòng. Hãng cung cấp vắc-xin đó có thể là một hãng độc quyền. Nếu hãng độc quyền đó có mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận thì giá của loại vắc-xin đó có thể sẽ cao hơn chi phí cận biên của việc sản xuất vắc-xin. Trong trường hợp như vậy, việc lấy mức giá chi trả cho loại vắc-xin làm chi phí có thể là thích hợp hoặc không tuỳ thuộc vào từng tình huống. Xét hai phân tích đã được xuất bản về các dự án tiêm chủng có tính đến chi phí của vắc- xin được sử dụng. Phân tích thứ nhất[7] xét trường hợp một chương trình được đề xuất để cung cấp dịch vụ tiêm phòng vắc-xin viêm gan B cho các công nhân có nguy cơ bị mắc bệnh cao do nghề nghiệp. Phân tích này lấy mức giá thị trường của loại vắc-xin ($108) làm chi phí mà không bàn gì đến chi phí cận biên. Nếu một hãng độc quyền cung cấp một loại vắc-xin thì mức giá thị trường có thể sẽ cao hơn chi phí cận biên. Nếu như phân tích được tiến hành trên quan điểm của cơ quan thực hiện chương trình tiêm phòng hay nếu hãng độc quyền sản xuất vắc-xin không có vị thế thì việc sử dụng giá làm thước đo chi phí là thích hợp. Tuy nhiên, nếu hãng độc quyền có vị thế thì chi phí sản xuất cận biên nên được coi là chi phí của vắc-xin. Ít nhất cũng cần nhắc đến một thực tế là chi phí cận biên có khả năng sẽ thấp hơn mức giá. Hơn thế, nếu như cơ quan đó thực thi chương trình mua một lượng vắc-xin lớn thông qua các thị trường thông thường thì có thể là chương trình sẽ khiến cho mức giá tăng và tiêu dùng tư giảm. Chi phí cận biên lúc này cần phải được dùng để xác định giá trị cho sản xuất tăng thêm. Cần lấy mức giá thị trường để xác định giá trị cho tiêu dùng bị cắt giảm và lấy chi phí cận biên để xác định giá trị cho sản lượng tăng thêm. Giả định rằng vắc-xin được sản xuất với chi phí cận biên là $40 và rằng mức giá sẽ tăng từ $108 lên $120 do tác động của chương trình thì phải định giá lượng vắc-xin sản xuất tăng thêm ở mức $40 trong khi cắt giảm tiêu dùng tư phải được định giá ở mức trung bình của mức giá trước và sau dự án là $114. Nghiên cứu thứ hai[8] xem xét một chương trình đề xuất tiêm chủng cho trẻ em ở Tây Ban Nha chống lại một loại cúm đặc biệt. Phân tích này giả định rằng cơ quan thực hiện chương trình sẽ đàm phán một mức giá đặc biệt với nhà cung cấp vắc-xin. Điều này gợi ý rằng nhà cung cấp (có thể là một hãng độc quyền) sẽ phân biệt giá và các đơn vị sản phẩm sử dụng như đầu-vào của dự án sẽ hoàn toàn là kết quả của việc mở rộng sản xuất. Nếu như nhà phân tích không có vị thế độc quyền thì mức giá vắc-xin thoả thuận sẽ được dùng như chi phí. Tuy nhiên, nếu hãng độc quyền có vị thế trong phân tích thì cần phải xác định giá trị của vắc-xin theo chi ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vận dụng giá cả thị trường để định giá đầu vào (Phần 2) Vận dụng giá cả thị trường để định giá đầu vào (Phần 2) Độc quyền hay công ty với sức mạnh thị trường lớn Nếu một công ty cung cấp một đầu-vào có sức mạnh thị trường đáng kể thì mức giá có thể sẽ lớn hơn chi phí cận biên. Trong trường hợp như vậy, nên định giá mức cắt giảm tiêu dùng tư theo mức giá thị trường. Nó sẽ ngang bằng với mức sẵn sàng chi trả của người tiêu dùng như được đo lường bởi đường cầu trước khi tiến hành dự án. Nên xác định giá trị của bất kỳ sản lượng gia tăng nào tại mức chi phí cận biên của sản xuất. Sự khác biệt của mức giá được trả và chi phí cận biên của đầu ra tăng thêm là lợi nhuận tăng thêm mà công ty độc quyền thu được. Chừng nào công ty độc quyền (hay chính xác hơn là chủ hay cổ đông của các công ty độc quyền) có vị thế thì toàn bộ mức giá trả cho đầu ra tăng thêm là chi phí hợp lý. Hình 4-4 minh hoạ một công ty độc quyền với đường chi phí cận biên MC của việc cung cấp một đầu-vào. Tác động của dự án là tăng cầu (và doanh thu cận biên tương ứng) từ mức D lên D'. Kết quả của việc cầu tăng là mức giá tối đa hoá lợi ích của công ty độc quyền tăng từ mức P0 lên P1. Tổng lượng hàng hoá được làm ra tăng từ Q0 lên Qt trong khi lượng sản phẩm người tiêu dùng tư yêu cầu giảm từ Q0 xuống Qp. Cần định giá sản lượng gia tăng theo giá trị cận biên của người tiêu dùng như thể hiện ở phía bên trái của vùng bôi thẫm. Hình 4-4 Cũng như đối với thuế và các tác nhân ngoại sinh, việc tính toán chi phí của một đầu-vào do một hãng độc quyền cung cấp đòi hỏi phải đưa ra một giả định về các kích cỡ tương ứng của mức tăng sản lượng và giảm tiêu dùng tư. Nếu dự án mua đầu-vào thông qua các thị trường thông thường thì có khả năng có một sự khác biệt nhất định giữa sản xuất gia tăng và tiêu dùng tư bị cắt giảm. Tuy nhiên, một dự án có thể mua một lượng đầu-vào lớn từ một công ty độc quyền sẽ thương thuyết một mức giá độc lập với mức giá thị trường. Đây là hình thức phân biệt giá của hãng độc quyền. Trong trường hợp như vậy lượng đầu-vào của một dự án có thể chỉ có được từ sản lượng tăng thêm chứ không phải là tiêu dùng bị cắt giảm đi. Ví dụ: Bất kỳ một dự án tiêm phòng miễn dịch đối với một căn bệnh nào cũng sẽ dùng một lượng vắc-xin tiêm phòng. Hãng cung cấp vắc-xin đó có thể là một hãng độc quyền. Nếu hãng độc quyền đó có mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận thì giá của loại vắc-xin đó có thể sẽ cao hơn chi phí cận biên của việc sản xuất vắc-xin. Trong trường hợp như vậy, việc lấy mức giá chi trả cho loại vắc-xin làm chi phí có thể là thích hợp hoặc không tuỳ thuộc vào từng tình huống. Xét hai phân tích đã được xuất bản về các dự án tiêm chủng có tính đến chi phí của vắc- xin được sử dụng. Phân tích thứ nhất[7] xét trường hợp một chương trình được đề xuất để cung cấp dịch vụ tiêm phòng vắc-xin viêm gan B cho các công nhân có nguy cơ bị mắc bệnh cao do nghề nghiệp. Phân tích này lấy mức giá thị trường của loại vắc-xin ($108) làm chi phí mà không bàn gì đến chi phí cận biên. Nếu một hãng độc quyền cung cấp một loại vắc-xin thì mức giá thị trường có thể sẽ cao hơn chi phí cận biên. Nếu như phân tích được tiến hành trên quan điểm của cơ quan thực hiện chương trình tiêm phòng hay nếu hãng độc quyền sản xuất vắc-xin không có vị thế thì việc sử dụng giá làm thước đo chi phí là thích hợp. Tuy nhiên, nếu hãng độc quyền có vị thế thì chi phí sản xuất cận biên nên được coi là chi phí của vắc-xin. Ít nhất cũng cần nhắc đến một thực tế là chi phí cận biên có khả năng sẽ thấp hơn mức giá. Hơn thế, nếu như cơ quan đó thực thi chương trình mua một lượng vắc-xin lớn thông qua các thị trường thông thường thì có thể là chương trình sẽ khiến cho mức giá tăng và tiêu dùng tư giảm. Chi phí cận biên lúc này cần phải được dùng để xác định giá trị cho sản xuất tăng thêm. Cần lấy mức giá thị trường để xác định giá trị cho tiêu dùng bị cắt giảm và lấy chi phí cận biên để xác định giá trị cho sản lượng tăng thêm. Giả định rằng vắc-xin được sản xuất với chi phí cận biên là $40 và rằng mức giá sẽ tăng từ $108 lên $120 do tác động của chương trình thì phải định giá lượng vắc-xin sản xuất tăng thêm ở mức $40 trong khi cắt giảm tiêu dùng tư phải được định giá ở mức trung bình của mức giá trước và sau dự án là $114. Nghiên cứu thứ hai[8] xem xét một chương trình đề xuất tiêm chủng cho trẻ em ở Tây Ban Nha chống lại một loại cúm đặc biệt. Phân tích này giả định rằng cơ quan thực hiện chương trình sẽ đàm phán một mức giá đặc biệt với nhà cung cấp vắc-xin. Điều này gợi ý rằng nhà cung cấp (có thể là một hãng độc quyền) sẽ phân biệt giá và các đơn vị sản phẩm sử dụng như đầu-vào của dự án sẽ hoàn toàn là kết quả của việc mở rộng sản xuất. Nếu như nhà phân tích không có vị thế độc quyền thì mức giá vắc-xin thoả thuận sẽ được dùng như chi phí. Tuy nhiên, nếu hãng độc quyền có vị thế trong phân tích thì cần phải xác định giá trị của vắc-xin theo chi ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài chính kế toán quản trị tài chính tài chính doanh nghiệp kiểm toánGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
360 trang 772 21 0 -
18 trang 462 0 0
-
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
262 trang 439 15 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Nguyễn Thu Thủy
186 trang 421 12 0 -
Chiến lược marketing trong kinh doanh
24 trang 382 1 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Nguyễn Thu Thủy
206 trang 370 10 0 -
3 trang 303 0 0
-
Tạo nền tảng phát triển bền vững thị trường bảo hiểm Việt Nam
3 trang 290 0 0 -
Đề cương học phần Tài chính doanh nghiệp
20 trang 286 0 0 -
Bài giảng: Chương 2: Bảo hiểm hàng hải
94 trang 270 1 0