Danh mục

Văn hóa Nõ Nường: Tượng đá Ông Chồng, Bà Chồng

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 234.69 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mời các bạn các bạn cùng tham khảo tài liệu "Văn hóa Nõ Nường: Tượng đá Ông Chồng, Bà Chồng" để hiểu thêm về các hình thái hoạt động của xã hội, hay nói các khác là văn hóa con người qua văn hóa Nõ Nường.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Văn hóa Nõ Nường: Tượng đá Ông Chồng, Bà ChồngVăn hóa Nõ Nường :Tượng đá Ông Chồng, Bà ChồngTrích cuốn “Văn hóa Nõ Nường” – Dương Đình Minh SơnHình 1: Sầm Sơn Thanh HóaKinh sách nói: ý thức thần thoại và triết học là sự hiểu biếtđầu tiên của con người về chính mình và ngoại cảnh. Đối vớinhân loại cổ sơ không có đến hai hình ảnh về thế giới – mộtkhách quan và một chủ quan – như chúng ta quan niệm ngàynay, mà chỉ có hình ảnh hồn nhất. Lại tiếp, đại nhân là nóingười ta coi Trời, Đất vạn vật làm một thể, coi thế giới làmmột nhà, toàn dân làm một người. Ví bằng đem hình ảnh sosánh mà đặt câu hỏi của mình của người, phân tích cái ta vàcái không ta thì là tiểu nhân vậy. Đại nhân mà có thể coithiên địa vạn vật làm một thể, không phải chỉ là ở ý tưởng màthôi đâu, đấy là cái bản thể nhân bản của tâm, nó vốn cùngthiên địa vạn vật là một thể. Phải chăng chỉ có đại nhân mớithế? Chỉ vì kẻ tiểu nhân tự coi mình là tiểu đó thôi.Trịnh Xuân Thuận, nhà bác học vật lý vũ trụ, tín đồ của đạoPhật từng nói: “Khoa học cung cấp cho ta những dữ kiện,nhưng không mang lại sự tiến bộ về tâm linh và chuyển hóa.Trái lại, sự tiếp cận tâm linh hay quán tưởng chắc chắn phảiđưa ta đến một số chuyển hóa bản thân sâu sắc mà chúng tanhận thức về thế giới để dẫn đến hành động.Như vậy, con người vẫn là chủ thể bao quát cả Thiên, Địa,Nhân do đó bất kỳ ở đâu có một vật đại diện cho con ngườitức là ở đó có con người. Nếu chúng ta coi loài người cũng từloài vật mà ra thì loài vật đánh dấu lãnh địa của chúng bằngnước tiểu. Còn con người thì dựng luôn vật sinh thực củamình ở đó để đánh dấu.Vì thế mà ở người Kinh, những vùng đất do con người caiquản đều được người ta đặt vào đây những hiện vật biểutượng Nõ Nường hoặc là những hiện vật kí thác. Hiện vật kíthác thì nhiều vô kể, chẳng hạn như đá Ông Chồng Bà Chồngở Sầm Sơn Thanh Hóa hoặc ở vùng biển tỉnh Quảng Ninh, từcửa Ông ra Quan Lạng, mặt biển có những ngọn núi dựngđứng, đều có tên là sinh thực của nam và nữ - tức là hòn núi“C” hòn núi “L” (Nõ Nường). Khách du lịch hỏi tại sao lạiđặt tên như thế? Người hướng dẫn du lịch nói: Đó là quanniệm của người đời xưa. Và trên bản đồ Di sản văn hóa thếgiới vùng Quan Lạng chúng tôi thấy ghi rõ các tên như thế.Hiện tượng này có thể thấy ở các cánh đồng của những làngquê của cả nước. Chẳng hạn ở Nam Định, theo đường từthành phố đi Ninh Bình, đến đoạn đền Phủ Dầy thì bên tráiphía biển có hòn núi “C”…và bên phải có cánh đồng “L”,hoặc ở làng Ninh Hiệp huyện Đông Anh Hà Nội, ngoài cánhđồng có thuở ruộng “ba bờ”, hòn đống “C…”, hoặc ở làngKẻ Giáp (nơi có miếu thờ Nõ Nường) nay là xã Tứ Xã, LâmThao, Phú Thọ, ngoài cánh đồng đều phân chia theo biểutượng Nõ Nường: có một con lạch, nước chảy từ miếu Tròuốn lượn qua cánh đồng ra sông Cái gọi là lạch “C…”, còncác thuở ruộng hai bên con lạch đó có tên là “L…” còn gọi làruộng “ba bờ”.Ngoài ra, các nơi có những tảng đá nằm cạnh nhau người tacũng gọi đó là hòn Trống mái. Do đó theo chúng tôi, biểutượng “rùa” đội “bia” đá ở khu Văn Miếu (hình 2) cũng làhình ảnh của vật “thiêng” như đá Ông Chồng Bà Chồng – NõNường.Hình 2: Rùa đội bia đáTâm thức về văn hóa Nõ Nường của người Việt rất sâu sắc,xuất hiện từ thuở thỏi đá cầm tay, đến chày bàn nghiền, hoặctượng nam nữ trên thạp đồng Đào Thịnh, hoặc tượng ngườiđàn ông ở di chỉ Văn Điển, hoặc tượng Bà Đanh (Banh).Tượng Bà Đanh tồn tại cho đến nửa đầu thế kỷ XX, hoặcmiếu thờ Nõ Nường và lễ hội Nõ Nường thì có ở nhiều nơi.Ngay những trụ đá đơn, nhưng trong đó đã có hình của haivật Nõ Nường trên tròn dưới vuông, hoặc trên vuông dướitròn, cột Mốc còn gọi là Ông mốc hoặc như trụ Đá thề ở núiNghĩa Linh, chùa Một Cột, Hà Nội, v.v…Trong tín ngưỡng “Ông Mốc” của văn hóa dân gian ngày nayở miền Bắc hầu như không còn nữa, nhưng ở miền Nam thìvấn đề này vẫn còn đang sâu sắc, nhất là Ông mốc đứng ở vịtrí địa giới của ba làng. Ngày xưa, khi cắm Ông mốc thì cácnhà chức trách, như lý trưởng kỳ mục của cả ba làng đều cómặt để làm lễ hạ mốc.Trong những lần về thăm quê Quảng Trị tôi đi tìm lại dấutích tâm linh Ông Mốc, nơi ngày tôi mới sinh, cha tôi đemgửi. Khi đến 12 tuổi hết hạn cha tôi đưa tôi đi theo, dâng lễtạ, xin cho tôi về. Lễ tạ là một quả trứng đặt trên bát cơm và3 nén hương (ngoài ra có lễ tạ hàng năm là khác).Tuy thế Ông Mốc vẫn theo dõi và sẽ đến ứng cứu khi “hồntôi” bị lâm nguy. Do đó, tôi có một niềm tin sắt đá, cho đếnngày nay không ai xâm hại được “hồn” của tôi – (Minh triếtphương Đông quan niệm “thần hồn” bảo vệ “thân xác”,chẳng hạn thuở nhỏ, “thần hồn” Đinh Tiên Hoàng lóe vầnghồng chắn lưỡi mai của công chú lao vào gót chân).Hình 3: Cột mốc làng Phương NgạnMột người cha đưa con đi lễ tạ, xin con về.Ông trưởng làng Phương Ngạn Nguyễn Thanh Duệ cho tôibiết: Ông Mốc ở làng Phương Ngạn này không chỉ có uy tínvới dân ở địa phương mà còn với cả người ngoài tỉnh ...

Tài liệu được xem nhiều: