Thông tin tài liệu:
TỪ SAU THẾ CHIẾN II ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XXCuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô chống phát xít xâm lược đã hoàn toàn thắng lợi, không chỉ đất nước Xô viết mà nhiều nước Châu Âu, châu Á cũng được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của bọn phát xít Đức, Nhật, Ý. Cái giá phải trả cho cuộc chiến thắng của loài người thật nặng nề. Riêng Liên Xô có khoảng hai chục triệu người chết và hơn chừng ấy người bị thương và mất tích. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Văn học Nga - Chương 11 Giới thiệu sơ lược tình hình sáng tácChương 11 TỪ SAU THẾ CHIẾN II ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XXCuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô chống phát xít xâm lược đ ãhoàn toàn thắng lợi, không chỉ đất nước Xô viết mà nhiều nước Châu Âu, châu Á cũngđược giải phóng khỏi ách chiếm đóng của bọn phát xít Đức, Nhật, Ý. Cái giá phải trảcho cu ộc chiến thắng của loài người thật nặng nề. Riêng Liên Xô có kho ảng hai chụctriệu người chết và hơn chừng ấy người bị thương và mất tích. Hàng nghìn thị xã, nôngtrang, nhà máy, trường học… hoàn toàn bị đổ nát vì bom đạn. Ngay sau chiến thắng,nhân dân Liên Xô lại bắt tay hàn gắn vết thương chiến tranh, giải quyết những hậuqu ả nặng nề về mặt xã hội và quyết tâm xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hộitrên mọi lĩnh vực.Văn học Xô viết cũng đã tham gia tích cực vào công cuộc phục hồi vĩ đại của đất nước,theo chức năng và phương thức riêng của mình.Văn xuôi, nhiều nhà văn đã tiếp tục ho àn thành nhiều tác phẩm đã ấp ủ hoặc viết dởdang trong thời kỳ còn chiến tranh như: Illia Erenburg sáng tác tiểu thuyết “Cơn b ão táp” (1947) B.Polevoi sáng tác “Một người chân chính” (1948) Briukov sáng tác “Hải âu” (1948) Fedorov sáng tác “Tỉnh ủy bí mật” (1947) Kazakevich sáng tác “Ngôi sao” (1947) Kataev sáng tác “Danh d ự của tuổi thơ’ (1940) Đề tài chiến tranh còn được tiếp tục khai thác với cái nhìn lùi xa sau chiến tranh như : “Số phận con người” của M.Solôkhov “Những người sống và những người chết” “Người ta sinh ra chưa phải là lính” và “Mùa hạ cuối cùng” của K.Ximonov “Những loạt đạn cuối cùng’ và “Tuyết bỏng” của I.Bondavev. “Gắng sống tới bình minh” của Bưkov (1972) Đề tài lao động sáng tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội : “Muối của đất” của Markov “Chuyện thường ngày ở huyện” của Oveskin (1952) .Phùng Hoài Ngọc biên soạn142 “Mùa gặt” của Nicolaieva (1950) Sau đại hội nhà văn lần II (1954) : Đề tài tiểu thuyết mở rộng ra : “Một vinh quang vô ích” của Voronin “Lời chào cuối cùng” “Chàng trai và cô gái chăn cừu” của Xtaphiev “Đừng bắn vào những con thiên nga trắng” của Alixiev “Bến bờ” (hoặc “Bờ xa”) của Bondarev “Một ngày dài hơn thế kỷ” của T. Aimatov (1963) “Quy lu ật của muôn đời” của Nodar Dumbatze “Tiếp cõi xa lại xa” (1960) trường ca của Tvardovski “Giữa thế kỷ” của Vưgodski Hai tập thơ “Tuyết ngày thứ ba” và “Đại lộ những người nhiệt tình”, Chùm thơ về Việt Nam và M ỹ” của Evtusenko Kịch nói : “Chúc lên đường may mắn”, “Những người bất tử” của Rozov . “Câu chuyện Iekut” của Arbuzov “Cô gái đánh trống trận” của Xalưnski () “Chuyển sang giờ mùa hè” của Xalưnski “Khúc thứ ba bi tráng” là vở cuối trong bộ ba viết về Lênin của Pogodin Satrov có cách tân táo bạo với các vở“Thời tiết của ngày mai” (1940), và “Những con ngựa xanh trên thảm cỏ đỏ” (1979). Vampilov với các vở “Người con trưởng”, “Con vịt mồi” Ghenman có các vở “Biên bản một cuộc họp”(1975), Chúng tôi kí tên dưới đây” (1979) () () Phần lớn các vở kịch đó đã đ ược d àn d ựng trên sân khấu Việt Nam, có ảnh hưởnglớn đến sân khấu kịch nói nước ta và khá quen thuộc đối với công chúng Việt Nam .Phùng Hoài Ngọc biên soạn143 Trong đời sống văn học Xô viết từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay có nhiều vấn đềphức tạp ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nó. Qua các đại hội nhà văn (4 năm 1 lần) nhiều vấn đề về sáng tác, lí luận tổ chức hoạt động củahội được bàn bạc. Từ những năm 1960 về sau, các nhà lí luận văn học Liên Xô quan tâm đến việc nhận thức lạivấn đề “chủ nghĩa hiện thực XHCN”. Cho tới nay đã có hàng trăm cuốn sách, hàng ngàn luận ántiến sĩ, phó tiến sĩ xoay quanh vấn đề lớn này. Từ chỗ coi chủ nghĩa HT-XHCN như là nguyên tắcphản ánh thực tại bằng quan điểm duy vật biện chứng nay đã đi tới quan điểm mới: Nó là một hệthống gồm nhiều yếu tố, nhiều phương diện sắp xếp theo một cấu trúc hoàn chỉnh từ cơ sở Mỹ học,nguyên tắc tính Đảng, chủ nghĩa nhân văn cộng sản đến nhân vật trung tâm, phong cách nghệ thuậtvà thi pháp. Lý thuyết “Hệ thống mở” của viện sĩ Markov ra đời từ những năm 70 thực chất là sựmở rộng quan niệm về mặt thi pháp của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Có một sự kiện khác gây không ít ồn ào và những phản ứng khác nhau trong sinh hoạt vănhọc Xô viết thời b ...