Văn học yêu nước giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX trong mối quan hệ với văn học dân gian
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 234.15 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết nghiên cứu văn học yêu nước giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX trong mối quan hệ với văn học dân gian giúp chúng ta hiểu sâu hơn về văn học yêu nước của một giai đoạn đặc thù này. Xét từ góc độ lịch sử văn học, sự xuất hiện và phát triển của những thể loại văn chương đặc biệt này đã góp phần làm cho nền văn học dân tộc trở nên mang tính nhất thể hóa cao hơn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Văn học yêu nước giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX trong mối quan hệ với văn học dân gian TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 9. 2011 VĂN HỌC YÊU NƯỚC GIAI ĐOẠN NỬA SAU THẾ KỶ XIX TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI VĂN HỌC DÂN GIAN Nguyễn Văn Thế1 TÓM TẮT Nghiên cứu văn học yêu nước giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX trong mối quan hệ với văn học dân gian giúp chúng ta hiểu sâu hơn về văn học yêu nước của một giai đoạn đặc thù này. Xét từ góc độ lịch sử văn học, sự xuất hiện và phát triển của những thể loại văn chương đặc biệt này đã góp phần làm cho nền văn học dân tộc trở nên mang tính nhất thể hóa cao hơn. Đó là sự nhất thể hóa theo hướng dân chủ hóa, làm mờ đi đường phân giới chia tách văn học bác học và văn học dân gian vốn rất rõ rệt trong quá khứ. Từ khoá: Văn học yêu nước; văn học dân gian 1. MỞ ĐẦU Trên quan niệm học thuật đơn thuần, văn học dân gian là một bộ phận tách riêng, nằm trong văn hóa dân gian, cùng với các ngành sáng tác dân gian khác. Ở nước ta, do hoàn cảnh có những nét đặc thù, văn học dân gian gắn liền với văn học viết. Mặc dù không phải là một khuynh hướng, nhưng nảy nở trên nền tảng của cuộc chiến đấu chống Pháp quyết liệt của dân tộc mà tính khuynh hướng của văn học dân gian giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX biểu hiện rõ rệt. Chưa bao giờ văn học dân gian theo sát thời sự, phản ánh kịp thời, nhạy bén và có chủ đề tập trung như văn học dân gian giai đoạn này. Có thể nói văn học dân gian giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX cũng là giai đoạn văn học dân gian yêu nước chống Pháp. 2. NỘI DUNG NGHIÊN CÚU Theo dõi thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, chúng ta thấy có một sự kết hợp tự nhiên đến đẹp giữa văn chương bác học và văn chương bình dân. Nếu như dòng văn học yêu nước chống Pháp trong văn học thành văn là tiếng nói chung của mọi tầng lớp nhân dân chống Pháp, thì văn học dân gian của giai đoạn này là tiếng nói riêng của quần chúng đông đảo nhất, cơ bản nhất, đó là tiếng nói của quần chúng nông dân chống Pháp. Văn học dân gian là văn chương của nhân dân lao động. Đó là lời ca tiếng hát bộc lộ những xúc cảm trong cuộc sống thôn dã, trong khung cảnh cùng nhau lao động sản xuất, cảnh hội hè đình đám tụ tập đông người, kể những chuyện trong xóm trong làng làm họ xúc động, những chuyện ngang trái mà họ muốn phê phán. Đến giai đoạn này, trong hoàn cảnh đất nước có giặc ngoại xâm, văn học dân gian vẫn phát triển trong những điều kiện nông thôn như cũ nhưng người nông dân không đủ cảnh thanh bình và tâm trạng thoải mái để viết nên những câu ca trữ tình, thơ mộng được. Họ phải dùng câu vè, ca dao để kể nỗi khổ, để tố cáo những cảnh bất công áp bức của những bọn hương lý mới, để 1 TS. Phòng QLKH&CN, trường Đại học Hồng Đức 58 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 9. 2011 ca ngợi những tấm gương tiết nghĩa, để ghi lại những sự việc xảy ra hãy còn nóng hổi có liên quan đến thời sự. Từ yêu cầu đó, văn học dân gian cũng dần mất tính địa phương. Sự trở lại của những hình thức văn học đặc biệt này chứng tỏ văn học dân gian và văn học viết có nội dung yêu nước chống Pháp trong giai đoạn này đều xuất hiện đồng thời, cùng nhạy cảm với tình hình, và cả hai đều phát triển sôi nổi, không ngừng. Điều đó thật dễ hiểu khi trên mặt trận chống giặc cướp nước, trí thức và nhân dân cùng một hàng ngũ thì văn học tất phải vậy. Vốn dĩ ca dao dân ca có tính cơ động, linh hoạt, nó là thứ vũ khí nhẹ. Truyền thuyết, truyện vè chứng tỏ một sức mạnh mới. Tình hình đấu tranh đòi hỏi hình thức thông tin nhanh và rộng, vè trở thành lợi hại. Cả mẩu truyện, truyền thuyết cũng góp phần, cố nhiên là có thêm sức sáng tạo từ trí tưởng tượng và tình cảm của nhân dân. Theo dòng thời gian và tuần tự các biến cố xảy ra, những sáng tác dân gian dệt thành bộ nhật trình kháng chiến. Bắt đầu có tiếng súng xâm lược của thực dân, dân gian Quảng Nam đã truyền nhau câu ca mà đến nay vẫn còn ghi được cái đột ngột của sự việc vang động đến tận đáy lòng người dân lương thiện: Tai nghe súng nổ cái đùng, Tàu Tây đã đến Vũng Thùng bạn ơi!. hay: Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ Ai vô xứ Nghệ thì vô Tây vô xứ Nghệ, đùi vồ đánh Tây Riêng một phong trào Thống Linh và Thiên Hộ Dương đã có đến chục chuyện kể rất cảm động, một địa bàn hoạt động của Trương Định cũng có bao nhiêu truyện giàu ý nghĩa. Trong Nam có loại thơ ca tụng nghĩa khí của những người dám giết Tây hay giết tay sai của Tây. Ca nông đại bác thật dài Tàu bay tàu lượn trên trời rất to Ai ngờ cả tụi ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Văn học yêu nước giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX trong mối quan hệ với văn học dân gian TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 9. 2011 VĂN HỌC YÊU NƯỚC GIAI ĐOẠN NỬA SAU THẾ KỶ XIX TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI VĂN HỌC DÂN GIAN Nguyễn Văn Thế1 TÓM TẮT Nghiên cứu văn học yêu nước giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX trong mối quan hệ với văn học dân gian giúp chúng ta hiểu sâu hơn về văn học yêu nước của một giai đoạn đặc thù này. Xét từ góc độ lịch sử văn học, sự xuất hiện và phát triển của những thể loại văn chương đặc biệt này đã góp phần làm cho nền văn học dân tộc trở nên mang tính nhất thể hóa cao hơn. Đó là sự nhất thể hóa theo hướng dân chủ hóa, làm mờ đi đường phân giới chia tách văn học bác học và văn học dân gian vốn rất rõ rệt trong quá khứ. Từ khoá: Văn học yêu nước; văn học dân gian 1. MỞ ĐẦU Trên quan niệm học thuật đơn thuần, văn học dân gian là một bộ phận tách riêng, nằm trong văn hóa dân gian, cùng với các ngành sáng tác dân gian khác. Ở nước ta, do hoàn cảnh có những nét đặc thù, văn học dân gian gắn liền với văn học viết. Mặc dù không phải là một khuynh hướng, nhưng nảy nở trên nền tảng của cuộc chiến đấu chống Pháp quyết liệt của dân tộc mà tính khuynh hướng của văn học dân gian giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX biểu hiện rõ rệt. Chưa bao giờ văn học dân gian theo sát thời sự, phản ánh kịp thời, nhạy bén và có chủ đề tập trung như văn học dân gian giai đoạn này. Có thể nói văn học dân gian giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX cũng là giai đoạn văn học dân gian yêu nước chống Pháp. 2. NỘI DUNG NGHIÊN CÚU Theo dõi thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, chúng ta thấy có một sự kết hợp tự nhiên đến đẹp giữa văn chương bác học và văn chương bình dân. Nếu như dòng văn học yêu nước chống Pháp trong văn học thành văn là tiếng nói chung của mọi tầng lớp nhân dân chống Pháp, thì văn học dân gian của giai đoạn này là tiếng nói riêng của quần chúng đông đảo nhất, cơ bản nhất, đó là tiếng nói của quần chúng nông dân chống Pháp. Văn học dân gian là văn chương của nhân dân lao động. Đó là lời ca tiếng hát bộc lộ những xúc cảm trong cuộc sống thôn dã, trong khung cảnh cùng nhau lao động sản xuất, cảnh hội hè đình đám tụ tập đông người, kể những chuyện trong xóm trong làng làm họ xúc động, những chuyện ngang trái mà họ muốn phê phán. Đến giai đoạn này, trong hoàn cảnh đất nước có giặc ngoại xâm, văn học dân gian vẫn phát triển trong những điều kiện nông thôn như cũ nhưng người nông dân không đủ cảnh thanh bình và tâm trạng thoải mái để viết nên những câu ca trữ tình, thơ mộng được. Họ phải dùng câu vè, ca dao để kể nỗi khổ, để tố cáo những cảnh bất công áp bức của những bọn hương lý mới, để 1 TS. Phòng QLKH&CN, trường Đại học Hồng Đức 58 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 9. 2011 ca ngợi những tấm gương tiết nghĩa, để ghi lại những sự việc xảy ra hãy còn nóng hổi có liên quan đến thời sự. Từ yêu cầu đó, văn học dân gian cũng dần mất tính địa phương. Sự trở lại của những hình thức văn học đặc biệt này chứng tỏ văn học dân gian và văn học viết có nội dung yêu nước chống Pháp trong giai đoạn này đều xuất hiện đồng thời, cùng nhạy cảm với tình hình, và cả hai đều phát triển sôi nổi, không ngừng. Điều đó thật dễ hiểu khi trên mặt trận chống giặc cướp nước, trí thức và nhân dân cùng một hàng ngũ thì văn học tất phải vậy. Vốn dĩ ca dao dân ca có tính cơ động, linh hoạt, nó là thứ vũ khí nhẹ. Truyền thuyết, truyện vè chứng tỏ một sức mạnh mới. Tình hình đấu tranh đòi hỏi hình thức thông tin nhanh và rộng, vè trở thành lợi hại. Cả mẩu truyện, truyền thuyết cũng góp phần, cố nhiên là có thêm sức sáng tạo từ trí tưởng tượng và tình cảm của nhân dân. Theo dòng thời gian và tuần tự các biến cố xảy ra, những sáng tác dân gian dệt thành bộ nhật trình kháng chiến. Bắt đầu có tiếng súng xâm lược của thực dân, dân gian Quảng Nam đã truyền nhau câu ca mà đến nay vẫn còn ghi được cái đột ngột của sự việc vang động đến tận đáy lòng người dân lương thiện: Tai nghe súng nổ cái đùng, Tàu Tây đã đến Vũng Thùng bạn ơi!. hay: Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ Ai vô xứ Nghệ thì vô Tây vô xứ Nghệ, đùi vồ đánh Tây Riêng một phong trào Thống Linh và Thiên Hộ Dương đã có đến chục chuyện kể rất cảm động, một địa bàn hoạt động của Trương Định cũng có bao nhiêu truyện giàu ý nghĩa. Trong Nam có loại thơ ca tụng nghĩa khí của những người dám giết Tây hay giết tay sai của Tây. Ca nông đại bác thật dài Tàu bay tàu lượn trên trời rất to Ai ngờ cả tụi ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Văn học yêu nước Văn học dân gian Lịch sử văn học Thể loại văn chương Nền văn học dân tộc Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
2 trang 291 0 0
-
Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Dấu ấn tư duy đồng dao trong thơ thiếu nhi Việt Nam từ 1945 đến nay
193 trang 220 0 0 -
Đề thi kết thúc học phần học kì 1 môn Văn học dân gian năm 2020-2021 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
3 trang 126 1 0 -
Tổng tập văn học dân gian Nam Bộ (Quyển 1): Phần 1
194 trang 122 0 0 -
114 trang 117 0 0
-
Đất và người Bình Dương qua tư liệu văn học dân gian
10 trang 111 0 0 -
Tổng tập văn học dân gian Nam Bộ (Quyển 2): Phần 2
116 trang 105 0 0 -
Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam (In lần thứ V): Phần 2
49 trang 70 0 0 -
219 trang 59 0 0
-
Dân ca Việt Nam - Tục ngữ ca dao: Phần 2
416 trang 56 0 0