Về chữ chết trong truyện Kiều
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 139.51 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Năm 2000, kỷ niệm 180 năm ngày thi hào Nguyễn Du từ trần, chúng tôi đã thử tìm hiểu chữ “chết” trong Truyện Kiều. Chết là một từ trung hoà về sắc thái tu từ mà người nói không biểu lộ tình cảm của mình đau buồn thương xót hay một thái độ nào khác. Theo nghĩa tốt ta có thể dùng: hy sinh, qua đời, từ trần, khuất núi... theo nghĩa xấu thì có: đi đời, đi toi, bất đắc kỳ tử... Trong Truyện Kiều, tác giả đã 45 lần nói về cái chết mà chỉ dùng chữ “chết”...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Về chữ "chết" trong truyện Kiều Về chữ chết trong truyện Kiều Năm 2000, kỷ niệm 180 năm ngày thi hào Nguyễn Du từ trần, chúng tôi đã thử tìm hiểu chữ “chết” trong Truyện Kiều. Chết là một từ trung hoà về sắc thái tu từ mà người nói không biểu lộ tình cảm của mình đau buồn thương xót hay một thái độ nào khác. Theo nghĩa tốt ta có thể dùng: hy sinh, qua đời, từ trần, khuất núi... theo nghĩa xấu thì có: đi đời, đi toi, bất đắc kỳ tử... Trong Truyện Kiều, tác giả đã 45 lần nói về cái chết mà chỉ dùng chữ “chết” có một lần trong câu 2532 thật là đích đáng, bởi lúc này Thúy Kiều quá đau khổ và hổ thẹn vì bị mắc lừa: 2531. Mặt nào trông thấy nhau đây, Thà liều sống chết một ngày với nhau. Tuy nhiên ngay ở Phần văn bản (Trang 543) của Từ điển Truyện Kiều – bản in năm 1974 – không có chữ chết nào, câu này in là: Thà liều sống thác một ngày với nhau. Trong khi ở Phần từ vựng giải nghĩa, câu này lại in là: Thà liều sống chết một ngày với nhau. Về cái chết của Đạm Tiên theo lời kể của Vương Quan thì: 0065. Kiếp hồng nhan có mong manh Nửa chừng xuân, thoắt / gãy cành thiên hương. Với nhịp thơ 3–1–4 trong câu bát, với cách ngắt câu đứt quãng thoắt/ gãy cành thiên hương, một nhã ngữ mà tác giả cho ta cảm tưởng sinh động về cái chết đột ngột của Đạm Tiên khi đang còn xuân sắc để rồi khi người khách viễn phương đến thì: 0069. Thuyền tình vừa ghé tới nơi Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ. Trâm gãy bình rơi lại là một nhã ngữ nói về cái chết của người kỹ nữ. Rồi khi báo mộng cho Kiều trong mơ lúc nàng tự tử thì Đạm Tiên lại nói: 0995. Rỉ rằng: Nhân quả dở dang Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao? Đạm Tiên là người cùng hội cùng thuyền (Hội Đoạn trường) khi nói về dự định tự tử của Thúy Kiều mà dùng chữ “trốn nợ đoạn trường” thì thật là tinh tế và đầy tình ý, không một ai khác có thể dùng từ này cho hợp hơn. Đó là những nhã ngữ để phân biệt với những uyển ngữ khi nói về cái chết của người chú của Kim Trọng: 531. Nghe tin thúc phụ từ đường Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề. Nay ta hay dùng chữ từ trần (lìa xa nơi trần thế tức lìa đời) để nói về cái chết, Nguyễn Du dùng chữ từ đường là từ giã cửa nhà cũng là nghĩa ấy. Đối với Vương ông khi gia đình bị nạn, ông muốn chết cho xong, tác giả lại tránh chữ chết mà thay bằng chữ mặt khuất: 0063. Một lần sau trước cũng là: Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau! – Về cái chết của Từ Hải, Nguyễn Du dùng lối ngoa dụ: 2519. Khí thiêng khi đã về thần, Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng. 2521.Trơ như đá vững như đồng, Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng dời. Khí nghĩa đen là hơi dùng để chỉ cái vô hình, thiêng (thiêng liêng) là có phép lạ làm được những điều khiến người ta phải kính sợ theo tín ngưỡng của dân gian, khí thiêng là vía người, hồn vía với ý nghĩa linh thiêng, thần là phần linh hồn, yếu tố vô hình tạo nên sức sống, đã về thần là đã trở về cõi của tinh thần, của linh hồn, nhưng thần còn có nghĩa là lực lượng siêu tự nhiên được tôn thờ. Nói về cái chết của người anh hùng mà viết: Khí thiêng khi đã về thần thì đây là lối nói nghe cao quý xa xôi và đầy âm hưởng, chỉ dành cho Từ Hải. Khi Kiều bắt buộc phải nói với Hồ Tôn Hiến về cái chết của Từ th ì thái độ lại đau đớn uất ức, như muốn tố cáo kẻ giết người ngay trước mặt mình bằng một cách nói trực tiếp cụ thể và đầy màu sắc: 2553. Ngỡ là phu quý phụ vinh, Ai ngờ một phút tan tành thịt xương. 2555. Năm năm trời bể ngang tàng, Dẫn mình đi bỏ chiến trường như không. Còn khi Kim Trọng cho người đi hỏi tin tức về Thúy Kiều thì lời kể của một người Hàng Châu về cái chết của Từ Hải cũng lại là một ngoa dụ: 2959. Rằng: Ngày hôm nọ giao binh Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền. Hình ảnh Từ Hải chỉ còn lại trong lòng người Hàng Châu như một vị thần linh vì thế ta có cảm tưởng linh hồn Từ đã về trời: Từ đã thu linh trận tiền. Thúy Kiều đã nhiều lần tự tử và nghĩ đến cái chết. Khi nàng than thở với Thúy Vân về cuộc đời sau này của mình thì lại dùng một hoán dụ: 0773. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Rồi: 0745. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Khi Kiều định tự tử, Tú bà sợ quá thì lại là những ẩn dụ rất văn hoa, trang trọng nói về cái chết của người thiếu nữ tài sắc tuyệt vời và đầy hứa hẹn cho công việc làm ăn của mụ: 0983. Sợ gan nát ngọc liều hoa, Mụ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Về chữ "chết" trong truyện Kiều Về chữ chết trong truyện Kiều Năm 2000, kỷ niệm 180 năm ngày thi hào Nguyễn Du từ trần, chúng tôi đã thử tìm hiểu chữ “chết” trong Truyện Kiều. Chết là một từ trung hoà về sắc thái tu từ mà người nói không biểu lộ tình cảm của mình đau buồn thương xót hay một thái độ nào khác. Theo nghĩa tốt ta có thể dùng: hy sinh, qua đời, từ trần, khuất núi... theo nghĩa xấu thì có: đi đời, đi toi, bất đắc kỳ tử... Trong Truyện Kiều, tác giả đã 45 lần nói về cái chết mà chỉ dùng chữ “chết” có một lần trong câu 2532 thật là đích đáng, bởi lúc này Thúy Kiều quá đau khổ và hổ thẹn vì bị mắc lừa: 2531. Mặt nào trông thấy nhau đây, Thà liều sống chết một ngày với nhau. Tuy nhiên ngay ở Phần văn bản (Trang 543) của Từ điển Truyện Kiều – bản in năm 1974 – không có chữ chết nào, câu này in là: Thà liều sống thác một ngày với nhau. Trong khi ở Phần từ vựng giải nghĩa, câu này lại in là: Thà liều sống chết một ngày với nhau. Về cái chết của Đạm Tiên theo lời kể của Vương Quan thì: 0065. Kiếp hồng nhan có mong manh Nửa chừng xuân, thoắt / gãy cành thiên hương. Với nhịp thơ 3–1–4 trong câu bát, với cách ngắt câu đứt quãng thoắt/ gãy cành thiên hương, một nhã ngữ mà tác giả cho ta cảm tưởng sinh động về cái chết đột ngột của Đạm Tiên khi đang còn xuân sắc để rồi khi người khách viễn phương đến thì: 0069. Thuyền tình vừa ghé tới nơi Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ. Trâm gãy bình rơi lại là một nhã ngữ nói về cái chết của người kỹ nữ. Rồi khi báo mộng cho Kiều trong mơ lúc nàng tự tử thì Đạm Tiên lại nói: 0995. Rỉ rằng: Nhân quả dở dang Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao? Đạm Tiên là người cùng hội cùng thuyền (Hội Đoạn trường) khi nói về dự định tự tử của Thúy Kiều mà dùng chữ “trốn nợ đoạn trường” thì thật là tinh tế và đầy tình ý, không một ai khác có thể dùng từ này cho hợp hơn. Đó là những nhã ngữ để phân biệt với những uyển ngữ khi nói về cái chết của người chú của Kim Trọng: 531. Nghe tin thúc phụ từ đường Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề. Nay ta hay dùng chữ từ trần (lìa xa nơi trần thế tức lìa đời) để nói về cái chết, Nguyễn Du dùng chữ từ đường là từ giã cửa nhà cũng là nghĩa ấy. Đối với Vương ông khi gia đình bị nạn, ông muốn chết cho xong, tác giả lại tránh chữ chết mà thay bằng chữ mặt khuất: 0063. Một lần sau trước cũng là: Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau! – Về cái chết của Từ Hải, Nguyễn Du dùng lối ngoa dụ: 2519. Khí thiêng khi đã về thần, Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng. 2521.Trơ như đá vững như đồng, Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng dời. Khí nghĩa đen là hơi dùng để chỉ cái vô hình, thiêng (thiêng liêng) là có phép lạ làm được những điều khiến người ta phải kính sợ theo tín ngưỡng của dân gian, khí thiêng là vía người, hồn vía với ý nghĩa linh thiêng, thần là phần linh hồn, yếu tố vô hình tạo nên sức sống, đã về thần là đã trở về cõi của tinh thần, của linh hồn, nhưng thần còn có nghĩa là lực lượng siêu tự nhiên được tôn thờ. Nói về cái chết của người anh hùng mà viết: Khí thiêng khi đã về thần thì đây là lối nói nghe cao quý xa xôi và đầy âm hưởng, chỉ dành cho Từ Hải. Khi Kiều bắt buộc phải nói với Hồ Tôn Hiến về cái chết của Từ th ì thái độ lại đau đớn uất ức, như muốn tố cáo kẻ giết người ngay trước mặt mình bằng một cách nói trực tiếp cụ thể và đầy màu sắc: 2553. Ngỡ là phu quý phụ vinh, Ai ngờ một phút tan tành thịt xương. 2555. Năm năm trời bể ngang tàng, Dẫn mình đi bỏ chiến trường như không. Còn khi Kim Trọng cho người đi hỏi tin tức về Thúy Kiều thì lời kể của một người Hàng Châu về cái chết của Từ Hải cũng lại là một ngoa dụ: 2959. Rằng: Ngày hôm nọ giao binh Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền. Hình ảnh Từ Hải chỉ còn lại trong lòng người Hàng Châu như một vị thần linh vì thế ta có cảm tưởng linh hồn Từ đã về trời: Từ đã thu linh trận tiền. Thúy Kiều đã nhiều lần tự tử và nghĩ đến cái chết. Khi nàng than thở với Thúy Vân về cuộc đời sau này của mình thì lại dùng một hoán dụ: 0773. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Rồi: 0745. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Khi Kiều định tự tử, Tú bà sợ quá thì lại là những ẩn dụ rất văn hoa, trang trọng nói về cái chết của người thiếu nữ tài sắc tuyệt vời và đầy hứa hẹn cho công việc làm ăn của mụ: 0983. Sợ gan nát ngọc liều hoa, Mụ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
văn hóa việt nam lịch sử việt nam sự phát triển của việt nam nguồn gốc nước việt nam hình thành nước việt namGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài 'Tìm hiểu thực trạng việc sống thử của sinh viên hiện nay'
13 trang 379 0 0 -
Bài tiểu luận: Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
18 trang 275 1 0 -
Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn
21 trang 196 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 147 0 0 -
Tiểu luận: Giới thiệu chung về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
10 trang 134 0 0 -
189 trang 130 0 0
-
Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam: Phần 1 - NXB ĐH Huế
99 trang 122 0 0 -
Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Quốc Vương (chủ biên)
31 trang 116 0 0 -
Tìm hiểu Việt Nam và Nhật Bản trong thế giới Đông Á: Phần 2
97 trang 109 0 0 -
Truyền thống văn hóa & phương pháp xây dựng văn hóa dân tộc: Phần 1
88 trang 108 0 0