Danh mục

Về hiện tượng thể lục bát chiếm ưu thế trong ca dao truyền thống

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 259.25 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các nhà khoa học đã khái quát những đặc điểm chính của thể lục bát người Việt như sau: - Đơn vị hạt nhân của thể lục bát là 2 dòng (trên sáu, dưới tám). - Luật bằng (B), trắc (T) trong cả hai dòng lục và bát vần bằng (có cả lục bát vần trắc nhưng số lượng không đáng kể) phải đảm bảo 2B, 4T, 6B và 8B, như thế cũng có nghĩa là lục bát hiệp vần bằng ở tiếng thứ 6(1) cả hai dòng. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Về hiện tượng thể lục bát chiếm ưu thế trong ca dao truyền thống Về hiện tượng thể lục bát chiếm ưu thế trong ca dao truyền thống Các nhà khoa học đã khái quát những đặc điểm chính của thể lục bátngười Việt như sau: - Đơn vị hạt nhân của thể lục bát là 2 dòng (trên sáu, dưới tám). - Luật bằng (B), trắc (T) trong cả hai dòng lục và bát vần bằng (có cả lục bátvần trắc nhưng số lượng không đáng kể) phải đảm bảo 2B, 4T, 6B và 8B, như thếcũng có nghĩa là lục bát hiệp vần bằng ở tiếng thứ 6(1) cả hai dòng. - Tiếng thứ 6 và 8 ở dòng bát tuy đều cùng vần bằng nhưng phải khác thanh:hoặc là huyền- ngang, hoặc ngang- huyền (không có h-h, n-n). - Phần lớn lục bát ngắt nhịp chẵn. Từ những khái quát trên, không ít người cho rằng lục bát là thể thơ đơn điệu,buồn tẻ. Năm 1998, tại Nhóm yêu nhạc Sydney, sau khi chỉ ra tính chặt chẽ trongâm điệu và nhịp điệu của lục bát, Phạm Quang Tuấn đã than thở rằng: Nếu phảinghe cái nhịp đều đều này mấy ngàn lần liên tiếp trong một tác phẩm lục bát dài thìquả là một cực hình!... Vậy nhưng, thực hiện thống kê từ nhiều bộ sưu tập ca dao khác nhau, các nhàkhoa học đều có chung một kết quả là: mặc dầu trong ca dao người Việt có mặt hầuhết các thể thơ truyền thống của thơ ca Việt Nam như 4 chữ, 5 chữ, thất ngôn, lụcbát, song thất lục bát và thể tự do, nhưng riêng thể lục bát chiếm tới hơn 90%. Thể lục bát cũng chiếm số lượng khá lớn trong nền văn học viết dân tộc, đặcbiệt nó đã đem lại những thành công rực rỡ cho các nhà thơ danh tiếng như NguyễnDu, Tản Đà, Huy Cận, Tố Hữu, Nguyễn Bính và gần đây là Nguyễn Duy, ĐồngĐức Bốn,... Điều ngạc nhiên là: hầu như cả những kết luận lẫn con số thống kê trên đãđược các nhà khoa học công bố từ nhiều năm nay nhưng ít ai lý giải đến nơi đếnchốn và có sức thuyết phục hiện tượng tuyệt đại đa số ca dao truyền thống đượcsáng tác theo thể lục bát. Phạm Thu Yến viết cả Những thế giới nghệ thuật ca dao(2) mà không hề đềcập đến hiện tượng này. Phan Diễm Phương làm cả một luận án tiến sĩ về thể lụcbát và song th ất lục bát cũng chỉ đề cập tới những nội dung đã được nhi ều ngườichú ý tới như âm luật, vần lu ật,... mà kh ông hề biết tới số lượng tuy ệt đố i của lụcbát trong ca dao (3). Nguy ễn Xuân Kính trong chuy ên luận Thi pháp ca dao, xuấtbản từ năm 1992 đến lần tái bản gần đây nhất, năm 2004, khi đưa ra con số 95%ca dao được sáng tác theo thể lục bát, vẫn chỉ nêu được hai nguy ên nhân là: nhịpđiệu thơ lục bát uyển chuyển, lại không bị gò bó về độ dài, ngắn của tác ph ẩm nêncó sở trường trong việc diễn đạt cảm xúc vốn rất phong phú của con người, thểhiện các nội dung hết sức đa dạng của hiện thực(4). Nhưng có thể nói hai nguy ênnhân ấy chưa đủ sức lý giải hiện tượng 95% ca dao được sáng tác theo thể lục bátnhư con số th ống kê được chính anh đưa ra. Hơn nữa những đặc điểm như sự uyểnchuyển về nhịp điệu và không bị gò bó về độ dài, ng ắn của tác phẩm thì ngo ại trừthơ Đường luật, một số th ể thơ khác của người Việt cũng có được, không riêng gìthể lục bát. Rõ ràng cần một lý gi ải trên nhiều phương di ện, thấu đáo và có sứcthuy ết phục hơn về sức sống của thể thơ này.  Không trực tiếp bàn đến vấn đề trên nhưng các công trình về âm nhạc dângian của Phạm Duy và Phạm Quang Tuấn đã gợi mở cho chúng ta một lời giải lýthú. Trong bài Bàn về lục bát và ca khúc Việt Nam đọc tại Nhóm yêunhạc Sydney năm 1998(5) Phạm Quang Tuấn khẳng định: “Phần lớn dân caViệt Nam là từ ca dao mà ra, mà ca dao thì hầu hết là lục bát”. Còn trong Đường vềdân ca, sau khi phân tích một số điệu lý, Phạm Duy đã đi đến kết luận rằng: Khôngcòn nghi ngờ gì nữa, hát lý là ca dao lục-bát được phổ nhạc(6). Không ai chê tráchPhạm Duy và Phạm Quang Tuấn, nhưng chúng ta đều nhận ra hai nhạc sĩ đã kếtluận ngược, bởi ca dao truyền thống là “ca từ” của dân ca chứ không phải dân ca làsự phổ nhạc của ca dao. Từ ngàn xưa, để tạo nhịp nhàng và sảng khoái trong laođộng, con người đã sáng tạo ra dân ca. Không loại trừ trường hợp sau này có nhữngbài ca dao lục bát được hát thành dân ca (ba miền), nhưng xét về quá trình thì thểlục bát được hình thành từ tục ngữ(7), được hoàn thiện dần qua ca từ của dân ca,cộng thêm sự “nâng cấp” của các nhà thơ. Dẫu sao cái “kết luận ngược” trên đâycủa hai nhạc sĩ cũng đã cho ta một nhận thức quan trọng về nhạc tính của thể lụcbát. Cả Phạm Duy và Phạm Quang Tuấn đều khẳng định: Một cặp lục-bát là mộtnhạc khúc. Trong bài viết của mình, Phạm Quang Tuấn cũng đã tự hỏi tại sao lụcbát lại chiếm vai trò quan trọng trong thơ Việt Nam như vậy? Và với tư cách mộtnhạc sĩ, anh đã chứng minh lục bát có ảnh hưởng như thế nào đối với âm nhạcViệt Nam. Tiếng Việt có 6 thanh, được phân làm hai nhóm: bằng (với ngang vàhuyền), trắc (với sắc, nặng, hỏi và ngã). Tuyệt đại đa số ca dao lục bát cũng như thơlục bát đều hiệp vần bằng và kết thúc cả hai dòng lụ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: