Về tội phạm có dấu hiệu Có tổ chức trong Luật Hình sự Việt Nam
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 226.99 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng sử dụng luật hình sự như là công cụ hữu hiệu để đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung cũng như tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức” nói riêng. Tuy nhiên, luật hình sự các nước quy định về nhóm tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức” lại rất khác nhau.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Về tội phạm có dấu hiệu "Có tổ chức" trong Luật Hình sự Việt NamVề tội phạm có dấu hiệu Có tổ chức trong Luật Hình sự Việt NamBất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng sử dụng luật hình sự như là công cụhữu hiệu để đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung cũng như tộiphạm có dấu hiệu “có tổ chức” nói riêng. Tuy nhiên, luật hình sự các nướcquy định về nhóm tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức” lại rất khác nhau. Luậthình sự Việt Nam quy định vấn đề này là xuất phát từ yêu cầu đấu tranhchống và phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam. Nhưng câu hỏi vẫn được đặt ra làquy định này đã đáp ứng được ở mức độ nào yêu cầu của cuộc đấu tranhchống và phòng ngừa tội phạm. Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu để làmrõ cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề, từ đó đưa ra kiến nghị góp phần hoànthiện quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm có dấu hiệu “có tổchức”.1. Nghiên cứu BLHS hiện hành cho thấy ở một số tội phạm, dấu hiệu “có tổ chức”được quy định là dấu hiệu định tội thuộc mặt khách quan của tội phạm. Cụ thể:Hành vi khách quan của một số tội phạm được quy định có đặc điểm là có tổ chức.Vậy những tội phạm nào có hành vi khách quan mang đặc điểm có tổ chức? Theoquan điểm của chúng tôi, các dạng hành vi khách quan sau đây mang đặc điểm cótổ chức:Thứ nhất, dấu hiệu “có tổ chức” được phản ánh qua quy định hành vi khách quancủa tội phạm dưới dạng là hoạt động chung có tổ chức của nhiều người. Các tộiphạm thuộc loại này là một số tội xâm phạm an ninh quốc gia mà điển hình là tộibạo loạn (Điều 82 BLHS). Đặc điểm có tổ chức ở tội này được phản ánh qua dấuhiệu hành vi khách quan là hoạt động vũ trang có tổ chức hoặc hoạt động bạo lựccó tổ chức của nhiều người. Những người tham gia hoạt động vũ trang hoặc bạolực có tổ chức dù với vai trò nào cũng là những người thực hiện tội phạm này. Việcxác định vai trò của từng người thực hiện tội phạm trong hoạt động chung có tổchức không phải là điều kiện để xác định có trách nhiệm hình sự hay không mà đểxác định khung hình phạt áp dụng đối với họ. Chính vì vậy mà điều luật quy địnhvề những tội phạm này bao giờ cũng có các khung hình phạt khác nhau cho các đốitượng người thực hiện tội phạm với vai trò khác nhau. Khung hình phạt quy địnhcho người có vai trò có tổ chức, hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọngnghiêm khắc hơn khung hình phạt quy định cho những người khác (Điều 81 - Tộixâm phạm an ninh lãnh thổ; Điều 82 - Tội bạo loạn; Điều 83 - Tội hoạt động phỉ;Điều 89 - Tội phá rối an ninh; Điều 91 - Tội trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nướcngoài nhằm chống chính quyền dân chủ nhân dân).Thứ hai, dấu hiệu có tổ chức được phản ánh qua quy định hành vi khách quan củatội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân (Điều 79 BLHS). Đặcđiểm có tổ chức của hành vi khách quan của tội phạm này thể hiện ở hoạt độngthành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân. Điềuluật không đòi hỏi hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chínhquyền dân chủ nhân dân nhất thiết phải là hoạt động do nhiều người thực hiệnnhưng việc thực hiện hoạt động đó không thể không cấu kết với nhiều người. Đâylà điều luật duy nhất quy định hành vi khách quan của tội phạm là hành vi thànhlập hoặc tham gia tổ chức tội phạm. Như vậy, theo luật hình sự Việt Nam, hành vithành lập hoặc tham gia tổ chức có mục đích phạm tội chỉ cấu thành tội phạm khitổ chức đó là tổ chức nhằm lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân. Đây là tổ chứctội phạm duy nhất được quy định trong luật hình sự Việt Nam.Thứ ba, ở một số ít tội phạm khác thì dấu hiệu có tổ chức lại được quy định là hànhvi tổ chức việc thực hiện hành vi phạm tội (hoặc vi phạm) của người khác. Đó làcác tội: Tội tổ chức tảo hôn (Điều 148); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý(Điều 197); Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 206); Tội tổ chức đánh bạc (Điều249) và Tội tổ chức người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép(Điều 275). Người phạm các tội phạm này là người có hành vi có tổ chức chongười khác thực hiện hành vi thuộc tội tảo hôn, tội sử dụng trái phép chất ma tuý,tội đua xe trái phép, tội đánh bạc, tội trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài tráiphép. Hành vi tổ chức có thể là hành vi lôi kéo, rủ rê, kích động hoặc là hành visắp đặt hoặc tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện hành vi phạm tội hoặc hànhvi vi phạm pháp luật. Điều luật không đòi hỏi hành vi tổ chức phải là hành vi donhiều người thực hiện. Nhưng trên thực tế vẫn có thể có trường hợp nhiều ngườicùng cố ý thực hiện các tội phạm này.2. Ngoài việc quy định dấu hiệu có tổ chức là dấu hiệu định tội nêu trên, BLHS cònquy định dấu hiệu phạm tội có tổ chức hay đồng phạm có tổ chức là tình tiết tăngnặng trách nhiệm hình sự hay là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Việc quyđịnh này chỉ được thực hiện đối với các tội phạm cố ý mà hành vi khách quan củatội này không được quy định phải là hành vi chung của nhiều người phạm tội. Nhưvậy, ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Về tội phạm có dấu hiệu "Có tổ chức" trong Luật Hình sự Việt NamVề tội phạm có dấu hiệu Có tổ chức trong Luật Hình sự Việt NamBất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng sử dụng luật hình sự như là công cụhữu hiệu để đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung cũng như tộiphạm có dấu hiệu “có tổ chức” nói riêng. Tuy nhiên, luật hình sự các nướcquy định về nhóm tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức” lại rất khác nhau. Luậthình sự Việt Nam quy định vấn đề này là xuất phát từ yêu cầu đấu tranhchống và phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam. Nhưng câu hỏi vẫn được đặt ra làquy định này đã đáp ứng được ở mức độ nào yêu cầu của cuộc đấu tranhchống và phòng ngừa tội phạm. Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu để làmrõ cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề, từ đó đưa ra kiến nghị góp phần hoànthiện quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm có dấu hiệu “có tổchức”.1. Nghiên cứu BLHS hiện hành cho thấy ở một số tội phạm, dấu hiệu “có tổ chức”được quy định là dấu hiệu định tội thuộc mặt khách quan của tội phạm. Cụ thể:Hành vi khách quan của một số tội phạm được quy định có đặc điểm là có tổ chức.Vậy những tội phạm nào có hành vi khách quan mang đặc điểm có tổ chức? Theoquan điểm của chúng tôi, các dạng hành vi khách quan sau đây mang đặc điểm cótổ chức:Thứ nhất, dấu hiệu “có tổ chức” được phản ánh qua quy định hành vi khách quancủa tội phạm dưới dạng là hoạt động chung có tổ chức của nhiều người. Các tộiphạm thuộc loại này là một số tội xâm phạm an ninh quốc gia mà điển hình là tộibạo loạn (Điều 82 BLHS). Đặc điểm có tổ chức ở tội này được phản ánh qua dấuhiệu hành vi khách quan là hoạt động vũ trang có tổ chức hoặc hoạt động bạo lựccó tổ chức của nhiều người. Những người tham gia hoạt động vũ trang hoặc bạolực có tổ chức dù với vai trò nào cũng là những người thực hiện tội phạm này. Việcxác định vai trò của từng người thực hiện tội phạm trong hoạt động chung có tổchức không phải là điều kiện để xác định có trách nhiệm hình sự hay không mà đểxác định khung hình phạt áp dụng đối với họ. Chính vì vậy mà điều luật quy địnhvề những tội phạm này bao giờ cũng có các khung hình phạt khác nhau cho các đốitượng người thực hiện tội phạm với vai trò khác nhau. Khung hình phạt quy địnhcho người có vai trò có tổ chức, hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọngnghiêm khắc hơn khung hình phạt quy định cho những người khác (Điều 81 - Tộixâm phạm an ninh lãnh thổ; Điều 82 - Tội bạo loạn; Điều 83 - Tội hoạt động phỉ;Điều 89 - Tội phá rối an ninh; Điều 91 - Tội trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nướcngoài nhằm chống chính quyền dân chủ nhân dân).Thứ hai, dấu hiệu có tổ chức được phản ánh qua quy định hành vi khách quan củatội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân (Điều 79 BLHS). Đặcđiểm có tổ chức của hành vi khách quan của tội phạm này thể hiện ở hoạt độngthành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân. Điềuluật không đòi hỏi hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chínhquyền dân chủ nhân dân nhất thiết phải là hoạt động do nhiều người thực hiệnnhưng việc thực hiện hoạt động đó không thể không cấu kết với nhiều người. Đâylà điều luật duy nhất quy định hành vi khách quan của tội phạm là hành vi thànhlập hoặc tham gia tổ chức tội phạm. Như vậy, theo luật hình sự Việt Nam, hành vithành lập hoặc tham gia tổ chức có mục đích phạm tội chỉ cấu thành tội phạm khitổ chức đó là tổ chức nhằm lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân. Đây là tổ chứctội phạm duy nhất được quy định trong luật hình sự Việt Nam.Thứ ba, ở một số ít tội phạm khác thì dấu hiệu có tổ chức lại được quy định là hànhvi tổ chức việc thực hiện hành vi phạm tội (hoặc vi phạm) của người khác. Đó làcác tội: Tội tổ chức tảo hôn (Điều 148); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý(Điều 197); Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 206); Tội tổ chức đánh bạc (Điều249) và Tội tổ chức người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép(Điều 275). Người phạm các tội phạm này là người có hành vi có tổ chức chongười khác thực hiện hành vi thuộc tội tảo hôn, tội sử dụng trái phép chất ma tuý,tội đua xe trái phép, tội đánh bạc, tội trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài tráiphép. Hành vi tổ chức có thể là hành vi lôi kéo, rủ rê, kích động hoặc là hành visắp đặt hoặc tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện hành vi phạm tội hoặc hànhvi vi phạm pháp luật. Điều luật không đòi hỏi hành vi tổ chức phải là hành vi donhiều người thực hiện. Nhưng trên thực tế vẫn có thể có trường hợp nhiều ngườicùng cố ý thực hiện các tội phạm này.2. Ngoài việc quy định dấu hiệu có tổ chức là dấu hiệu định tội nêu trên, BLHS cònquy định dấu hiệu phạm tội có tổ chức hay đồng phạm có tổ chức là tình tiết tăngnặng trách nhiệm hình sự hay là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Việc quyđịnh này chỉ được thực hiện đối với các tội phạm cố ý mà hành vi khách quan củatội này không được quy định phải là hành vi chung của nhiều người phạm tội. Nhưvậy, ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Luật Hình sự quản lý Nhà nước kinh tế chính trị quản lý kinh tế đặc điểm kinh tếGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Quản lý nhà nước về kinh tế: Phần 1 - GS. TS Đỗ Hoàng Toàn
238 trang 409 2 0 -
Doanh nghiệp bán lẻ: Tự bơi hay nương bóng?
3 trang 385 0 0 -
BÀI THU HOẠCH QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
16 trang 308 0 0 -
Các bước trong phương pháp phân tích báo cáo tài chính đúng chuẩn
5 trang 289 0 0 -
Chống 'chạy chức, chạy quyền' - Một giải pháp chống tham nhũng trong công tác cán bộ
11 trang 279 0 0 -
3 trang 276 6 0
-
197 trang 275 0 0
-
2 trang 274 0 0
-
LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
20 trang 269 0 0 -
17 trang 256 0 0