Thông tin tài liệu:
Vi khuẩn lậu (Neisseria gonorrhoeae) là tác nhân gây nên bệnh lậu. Ngoài gây bệnh ở đường sinh dục - tiết niệu, vi khuẩn lậu còn có thể gây bệnh cho một số cơ quan khác trong cơ thể như viêm kết mạc mắt, thấp khớp, viêm họng, đôi khi có thể gây nhiễm khuẩn huyết. Tỷ lệ mắc bệnh lậu đường sinh dục - tiết niệu tương đối cao, tuy vậy hiện nay việc điều trị lậu còn gặp khá nhiều phiền toái do một số nguyên nhân khác nhau nhưng đáng kể nhất là vi khuẩn lậu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vi khuẩn lậu kháng thuốc - Vì sao? Vi khuẩn lậu kháng thuốc - Vì sao? Phải dùng kháng sinh đặc hiệu và đúng liều mới điều trị được bệnh lậu. Vi khuẩn lậu (Neisseria gonorrhoeae) là tác nhân gây nên bệnh lậu.Ngoài gây bệnh ở đường sinh dục - tiết niệu, vi khuẩn lậu còn có thể gây bệnhcho một số cơ quan khác trong cơ thể như viêm kết mạc mắt, thấp khớp, viêmhọng, đôi khi có thể gây nhiễm khuẩn huyết. Tỷ lệ mắc bệnh lậu đường sinhdục - tiết niệu tương đối cao, tuy vậy hiện nay việc điều trị lậu còn gặp khánhiều phiền toái do một số nguyên nhân khác nhau nhưng đáng kể nhất là vikhuẩn lậu kháng kháng sinh. Một số nguyên nhân khiến cho điều trị hội chứng lậu không khỏi Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều trị bệnh lậu không khỏi hoặc khôngkhỏi hẳn, xin nêu một số nguyên nhân cơ bản sau đây: - Do không phải tác nhân gây bệnh là vi khuẩn lậu Người ta gọi hội chứng lậu bởi vì ngoài vi khuẩn lậu còn có một số vikhuẩn có đặc điểm sinh học hoàn toàn khác vi khuẩn lậu nhưng cũng gây viêmsinh dục - tiết niệu có triệu chứng lâm sàng tương tự như vi khuẩn lậu (người tagọi là bệnh lậu không phải do lậu). Đó là vi khuẩn chlamydia trachomatis vàmycoplasma. Triệu chứng lâm sàng của hội chứng lậu: Hội chứng lậu có hai giai đoạn:cấp tính và mạn tính. Lậu cấp tính: Bệnh lậu cấp tính thể hiện ở nam giới và nữ giới có khácnhau. Ở nam giới sau thời kỳ ủ bệnh khoảng từ 2 - 6 ngày thì đa số các trường hợpđều có triệu chứng của viêm niệu đạo cấp tính: đau dọc theo niệu đạo, kèm theonóng, rát, buốt khi đi tiểu. Giai đoạn cấp tính thường có mủ ở niệu đạo. Mủ tựchảy ra hoặc lẫn với nước tiểu làm cho nước tiểu đục. Mủ của bệnh lậu thường đặcvà có màu vàng. Ở nữ giới, thời gian ủ bệnh rất khó xác định vì các triệu chứng lậu ở nữ giớikhá kín đáo, nhất là tổn thương ở âm đạo, cổ tử cung. Tuy vậy cũng có trường hợpthấy đái rắt, đái buốt, đau tức vùng xương mu sau mỗi lần giao hợp. Nếu khám sẽthấy viêm âm hộ, viêm âm đạo, viêm cổ tử cung (viêm tấy, có mủ). Lậu mạn tính: Ở nam giới, thường có đái rắt, đái buốt, ít khi có mủ. Đa sốcác trường hợp thấy có chất nhày như nhựa chuối xuất hiện ở lỗ sáo vào lúc sángsớm khi mới ngủ dậy trước khi đi tiểu. Ở nữ giới, đa số bệnh nhân lậu chuyển sang giai đoạn mạn tính ngay từ đầu(bởi vì triệu chứng cấp tính ở nữ giới rất kín đáo nên giữa lậu cấp và lậu mạn khóphân biệt). Triệu chứng của lậu mạn tính ở nữ giới rất nghèo nàn chỉ có khí hưmàu vàng, ở giai đoạn mạn tính có khi còn lan sang cả hậu môn (do mủ kèm theovi khuẩn chảy vào hậu môn). Điều đáng quan tâm trong lậu mạn tính ở nữ giới làlàm lây lan mầm bệnh (cho đối tượng tiếp xúc trực tiếp) trong một quá trình dàisuốt cả thời kỳ hoạt động tình dục (nếu không phát hiện và điều trị dứt điểm). - Do điều trị không đúng phác đồ: Hội chứng lậu ở đường sinh dục - tiếtniệu không chỉ duy nhất do vi khuẩn lậu gây nên mà còn có một số vi khuẩn khác.Vì vậy khi có triệu chứng của bệnh lậu cần đi khám ngay để được làm một số xétnghiệm cần thiết tìm nguyên nhân gây bệnh. Tại bệnh viện hay phòng khám có đủđiều kiện bác sĩ sẽ cho xét nghiệm mủ, chất nhày niệu đạo (nam giới), mủ, chấtnhày âm đạo, cổ tử cung (nữ giới) để tìm vi khuẩn lậu. Tuy vậy đối với vi khuẩnchlamydia và mycoplasma thì nhuộm bằng phương pháp gram thông thườngkhông tìm thấy chúng. Trong một số trường hợp triệu chứng lâm sàng rất điểnhình nhưng không tìm thấy vi khuẩn lậu thì có thể lấy nước tiểu lúc sáng sớm hoặclấy tinh dịch (nam giới). Những phòng xét nghiệm có điều kiện khi không tìm thấyvi khuẩn người ta sẽ tiến hành làm xét nghiệm với kỹ thuật sinh học phân tử(PCR). Cũng nên lưu ý là tác nhân gây bệnh do vi khuẩn gì thì dùng phác đồ đóđiều trị mới có kết quả. - Do vi khuẩn lậu kháng kháng sinh: Nếu tác nhân gây bệnh lậu do chính vikhuẩn lậu thì phải dùng phác đồ điều trị thích hợp. Tuy vậy, hiện nay vi khuẩn lậungày càng có xu hướng kháng lại kháng sinh, nhất là các kháng sinh đặc hiệu, thếhệ mới. Tại sao vi khuẩn lậu kháng kháng sinh? Cũng như hầu hết các loài vi khuẩn càng ngày càng có xu hướng kháng lạikháng sinh, nhiều loài vi khuẩn đa đề kháng kháng sinh, trong số đó có vi khuẩnlậu. Trong bài viết này xin đề cập đến một số kháng sinh thường được dùng đểđiều trị bệnh lậu do vi khuẩn lậu gây ra. - Thuốc kháng sinh hàng đầu hay được sử dụng là nhóm kháng sinh sinh b-lactam (ví dụ penicillin). Vi khuẩn lậu đề kháng với nhóm kháng sinh này dochúng làm giảm tác dụng của phức hợp giữa penicillin và protein (PBP: penicillinbinding protein = protein liên kết penicillin), tăng gắn kháng sinh vào PBP do đósẽ làm giảm tính thấm của kháng sinh qua màng tế bào vi khuẩn. - Đối với nhóm kháng sinh tetracycline cũng là nhóm kháng sinh được ápdụng trong điều trị bệnh lậu do vi khuẩn lậu. Người ta thấy rằng do vi khuẩn lậusinh ra m ...