![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Vì sao cần phát hiện bệnh tiểu đường khi mang thai?
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 149.87 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Vì sao cần phát hiện bệnh tiểu đường khi mang thai?Những phụ nữ mang thai rất dễ bị sang chấn tinh thần (stress) khi được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, nếu các bà mẹ tương lai có những kiến thức cơ bản về bệnh tiểu đường thai nghén (TĐTN) thì sự tác động tâm lý đối với họ sẽ giảm đi rất nhiều. TĐTN là gì? Đó là tình trạng rối loạn dung nạp glucose ở bất kỳ mức độ nào, được phát hiện trong thời kỳ mang thai. Có thể nói, TĐTN chính là một thể...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vì sao cần phát hiện bệnh tiểu đường khi mang thai? Vì sao cần phát hiện bệnh tiểu đường khi mang thai? Những phụ nữ mang thai rất dễ bị sang chấn tinh thần (stress) khi được chẩnđoán mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, nếu các bà mẹ tương lai có những kiến thức cơbản về bệnh tiểu đường thai nghén (TĐTN) thì sự tác động tâm lý đối với họ sẽ giảm đirất nhiều. TĐTN là gì? Đó là tình trạng rối loạn dung nạp glucose ở bất kỳ mức độ nào, được phát hiệntrong thời kỳ mang thai. Có thể nói, TĐTN chính là một thể bệnh tiểu đường (TĐ), chỉxuất hiện và tồn tại trong thời gian người phụ nữ mang thai. Như vậy, TĐTN khônggiống bất cứ một thể bệnh TĐ nào khác. TĐTN khởi phát trong khi có thai và tự khỏisau khi sinh. Nếu trong vòng 6 tuần sau khi sinh, người mẹ TĐTN chưa khỏi bệnh thìlúc này họ không được chẩn đoán là TĐTN nữa mà thuộc thể bệnh TĐ khác như: TĐtýp 1, TĐ týp 2, TĐ do dinh dưỡng, TĐ triệu chứng. Có nghĩa chẩn đoán TĐTN mộtcách chắc chắn nhất là chẩn đoán hồi cứu sau khi sinh 6 tuần. Chẩn đoán TĐTN Cho tới nay trên thế giới vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa có một sự thống nhấtvề tiêu chí này. Đặc biệt, tiêu chí chẩn đoán TĐTN của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)hoàn toàn khác với tiêu chí chẩn đoán của Hiệp hội TĐ Hoa Kỳ. Theo WHO, bệnh nhânđược chẩn đoán TĐTN khi đường huyết lúc đói > 7mmol/l (cũng giống như xét nghiệmchẩn đoán TĐ ở người không mang thai). Để chẩn đoán TĐTN một cách chắc chắnhơn, WHO đưa ra khuyến cáo chẩn đoán dựa vào nghiệm pháp dung nạp glucose (làmxét nghiệm đường huyết tương sau 2 giờ uống 75g đường glucose pha với 250mlnước sạch). Bệnh nhân được chẩn đoán TĐTN khi đường huyết tương sau 2 giờ >7,8mmol/l (xét nghiệm chẩn đoán TĐ ở người không mang thai > 11,1 mmol/l).TĐTN rấtkhó phát hiện nếu không làm xét nghiệm máu hoặc không làm nghiệm pháp dung nạpglucose vì bệnh thường không có các triệu chứng hay các dấu hiệu biểu hiện ra bênngoài. Bởi vậy, tất cả phụ nữ mang thai đều cần phải khám sàng lọc TĐTN. Trước đây,việc sàng lọc dựa vào kết quả xét nghiệm nước tiểu, theo kết quả này thì sẽ khôngchính xác vì nhiều phụ nữ mang thai không bị TĐTN mà vẫn có đường niệu dươngtính. Mặt khác, những người TĐTN cũng có những lúc không có đường trong nướctiểu. Vì sao cần phải phát hiện TĐ khi mang thai? Rất có thể bạn sẽ đặt ra một câu hỏi cho chúng tôi: TĐTN tự khỏi, vậy có cầnphải phát hiện và can thiệp không? Chúng tôi xin trả lời: rất cần. Nếu không có sự “rấtcần” này thì hậu quả của TĐTN đối với người mẹ và thai nhi sẽ trở nên rất nghiêmtrọng - nghiêm trọng trong quá trình mang thai, lúc sinh và ngay cả cuộc sống saunày.Tăng đường huyết trong thời kỳ mang thai sẽ làm tổn hại đến thai nhi, gây ranhững bất thường bẩm sinh, thai to hoặc sảy thai. Trong 6 tháng cuối của thời kỳ mangthai, nếu người mẹ bị tăng đường huyết thì cũng gây tăng đường huyết cho thai và gâyra tình trạng tăng insulin ở thai. Và sau khi sinh, trẻ không nhận được lượng đườngnhiều như khi còn trong tử cung của mẹ nữa, sự dư thừa insulin sẽ làm cho đườngmáu của trẻ ở dưới mức bình thường. Hạ đường huyết ở trẻ rất dễ gây nguy hiểm chotrẻ và tổn thương các tế bào thần kinh ở não bộ nếu không được điều trị kịp thời. Thaicủa những bà mẹ bị TĐ thường có xu hướng to hơn bình thường nên rất dễ có nguy cơbị đẻ non. Do đẻ non nên trẻ có nhiều nguy cơ mắc các bệnh về đường hô hấp, đặcbiệt là hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh.Tăng đường huyết ở phụ nữ mang thai sẽgây nên tiền sản giật (tăng huyết áp, phù) nếu không kiểm soát tốt đường huyết. Tănghuyết áp ở người mẹ sẽ đe dọa đến tính mạng của cả mẹ và con. TĐTN có thể làmtăng nồng độ xêtôn máu của người mẹ, nên trẻ cũng bị tăng xêtôn máu, gây hại chotrẻ. Can thiệp đối với TĐTN như thế nào? Nhìn chung, cũng giống như can thiệp cho những người bệnh TĐ không mangthai, có 3 phương pháp chính: chế độ ăn uống, tập luyện và sử dụng thuốc. Việc đầutiên là phải thực hiện chế độ ăn. Nhu cầu năng lượng tùy thuộc vào trọng lượng trướckhi có thai, tình trạng tăng cân kể từ lúc bắt đầu mang thai và đánh giá nhu cầu nănglượng trước đó. Đối với TĐTN thì việc tập luyện phải hết sức thận trọng. Khi đang tậpluyện cảm thấy mệt thì phải ngừng tập và nghỉ ngơi. Trước khi bắt đầu bất kỳ chươngtrình tập luyện nào, cũng cần có sự thảo luận giữa bệnh nhân với thầy thuốc để chọn rahình thức và thời lượng tập luyện thích hợp nhất. Người phụ nữ TĐTN có thể tập luyệnở mức trung bình và tránh một số hoạt động nhất định cho đến sau khi sinh. Trong tậpluyện, nên giữ cho nhịp tim không vượt quá 140 lần/phút và cũng không nên để tìnhtrạng nhịp tim nhanh kéo dài. Tránh tập luyện quá sức. Cũng như các bà mẹ mang thaikhác, người mẹ bị TĐTN nên đi bộ hoặc bơi lội nếu có điều kiện. Trong khi bơi, sứcnâng của nước làm giảm áp lực các khớp, không gây chấn thương cho các xươngkhớp ở bàn chân và cẳng chân.Nếu chế độ tập luyện và ăn uống vẫn không kiểm soátđược ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vì sao cần phát hiện bệnh tiểu đường khi mang thai? Vì sao cần phát hiện bệnh tiểu đường khi mang thai? Những phụ nữ mang thai rất dễ bị sang chấn tinh thần (stress) khi được chẩnđoán mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, nếu các bà mẹ tương lai có những kiến thức cơbản về bệnh tiểu đường thai nghén (TĐTN) thì sự tác động tâm lý đối với họ sẽ giảm đirất nhiều. TĐTN là gì? Đó là tình trạng rối loạn dung nạp glucose ở bất kỳ mức độ nào, được phát hiệntrong thời kỳ mang thai. Có thể nói, TĐTN chính là một thể bệnh tiểu đường (TĐ), chỉxuất hiện và tồn tại trong thời gian người phụ nữ mang thai. Như vậy, TĐTN khônggiống bất cứ một thể bệnh TĐ nào khác. TĐTN khởi phát trong khi có thai và tự khỏisau khi sinh. Nếu trong vòng 6 tuần sau khi sinh, người mẹ TĐTN chưa khỏi bệnh thìlúc này họ không được chẩn đoán là TĐTN nữa mà thuộc thể bệnh TĐ khác như: TĐtýp 1, TĐ týp 2, TĐ do dinh dưỡng, TĐ triệu chứng. Có nghĩa chẩn đoán TĐTN mộtcách chắc chắn nhất là chẩn đoán hồi cứu sau khi sinh 6 tuần. Chẩn đoán TĐTN Cho tới nay trên thế giới vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa có một sự thống nhấtvề tiêu chí này. Đặc biệt, tiêu chí chẩn đoán TĐTN của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)hoàn toàn khác với tiêu chí chẩn đoán của Hiệp hội TĐ Hoa Kỳ. Theo WHO, bệnh nhânđược chẩn đoán TĐTN khi đường huyết lúc đói > 7mmol/l (cũng giống như xét nghiệmchẩn đoán TĐ ở người không mang thai). Để chẩn đoán TĐTN một cách chắc chắnhơn, WHO đưa ra khuyến cáo chẩn đoán dựa vào nghiệm pháp dung nạp glucose (làmxét nghiệm đường huyết tương sau 2 giờ uống 75g đường glucose pha với 250mlnước sạch). Bệnh nhân được chẩn đoán TĐTN khi đường huyết tương sau 2 giờ >7,8mmol/l (xét nghiệm chẩn đoán TĐ ở người không mang thai > 11,1 mmol/l).TĐTN rấtkhó phát hiện nếu không làm xét nghiệm máu hoặc không làm nghiệm pháp dung nạpglucose vì bệnh thường không có các triệu chứng hay các dấu hiệu biểu hiện ra bênngoài. Bởi vậy, tất cả phụ nữ mang thai đều cần phải khám sàng lọc TĐTN. Trước đây,việc sàng lọc dựa vào kết quả xét nghiệm nước tiểu, theo kết quả này thì sẽ khôngchính xác vì nhiều phụ nữ mang thai không bị TĐTN mà vẫn có đường niệu dươngtính. Mặt khác, những người TĐTN cũng có những lúc không có đường trong nướctiểu. Vì sao cần phải phát hiện TĐ khi mang thai? Rất có thể bạn sẽ đặt ra một câu hỏi cho chúng tôi: TĐTN tự khỏi, vậy có cầnphải phát hiện và can thiệp không? Chúng tôi xin trả lời: rất cần. Nếu không có sự “rấtcần” này thì hậu quả của TĐTN đối với người mẹ và thai nhi sẽ trở nên rất nghiêmtrọng - nghiêm trọng trong quá trình mang thai, lúc sinh và ngay cả cuộc sống saunày.Tăng đường huyết trong thời kỳ mang thai sẽ làm tổn hại đến thai nhi, gây ranhững bất thường bẩm sinh, thai to hoặc sảy thai. Trong 6 tháng cuối của thời kỳ mangthai, nếu người mẹ bị tăng đường huyết thì cũng gây tăng đường huyết cho thai và gâyra tình trạng tăng insulin ở thai. Và sau khi sinh, trẻ không nhận được lượng đườngnhiều như khi còn trong tử cung của mẹ nữa, sự dư thừa insulin sẽ làm cho đườngmáu của trẻ ở dưới mức bình thường. Hạ đường huyết ở trẻ rất dễ gây nguy hiểm chotrẻ và tổn thương các tế bào thần kinh ở não bộ nếu không được điều trị kịp thời. Thaicủa những bà mẹ bị TĐ thường có xu hướng to hơn bình thường nên rất dễ có nguy cơbị đẻ non. Do đẻ non nên trẻ có nhiều nguy cơ mắc các bệnh về đường hô hấp, đặcbiệt là hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh.Tăng đường huyết ở phụ nữ mang thai sẽgây nên tiền sản giật (tăng huyết áp, phù) nếu không kiểm soát tốt đường huyết. Tănghuyết áp ở người mẹ sẽ đe dọa đến tính mạng của cả mẹ và con. TĐTN có thể làmtăng nồng độ xêtôn máu của người mẹ, nên trẻ cũng bị tăng xêtôn máu, gây hại chotrẻ. Can thiệp đối với TĐTN như thế nào? Nhìn chung, cũng giống như can thiệp cho những người bệnh TĐ không mangthai, có 3 phương pháp chính: chế độ ăn uống, tập luyện và sử dụng thuốc. Việc đầutiên là phải thực hiện chế độ ăn. Nhu cầu năng lượng tùy thuộc vào trọng lượng trướckhi có thai, tình trạng tăng cân kể từ lúc bắt đầu mang thai và đánh giá nhu cầu nănglượng trước đó. Đối với TĐTN thì việc tập luyện phải hết sức thận trọng. Khi đang tậpluyện cảm thấy mệt thì phải ngừng tập và nghỉ ngơi. Trước khi bắt đầu bất kỳ chươngtrình tập luyện nào, cũng cần có sự thảo luận giữa bệnh nhân với thầy thuốc để chọn rahình thức và thời lượng tập luyện thích hợp nhất. Người phụ nữ TĐTN có thể tập luyệnở mức trung bình và tránh một số hoạt động nhất định cho đến sau khi sinh. Trong tậpluyện, nên giữ cho nhịp tim không vượt quá 140 lần/phút và cũng không nên để tìnhtrạng nhịp tim nhanh kéo dài. Tránh tập luyện quá sức. Cũng như các bà mẹ mang thaikhác, người mẹ bị TĐTN nên đi bộ hoặc bơi lội nếu có điều kiện. Trong khi bơi, sứcnâng của nước làm giảm áp lực các khớp, không gây chấn thương cho các xươngkhớp ở bàn chân và cẳng chân.Nếu chế độ tập luyện và ăn uống vẫn không kiểm soátđược ...
Tài liệu liên quan:
-
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 235 0 0 -
Chất lượng tiếp cận dịch vụ y tế của người nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
10 trang 196 0 0 -
7 trang 192 0 0
-
Thực đơn dinh dưỡng cho người bệnh tiểu đường - Thanh Bình
198 trang 189 0 0 -
4 trang 189 0 0
-
Một số dấu hiệu bất thường khi dùng thuốc
5 trang 186 0 0 -
Nhận thức về năng lực thông tin sức khỏe của sinh viên
8 trang 117 0 0 -
Ưu điểm và nhược điểm thuốc đái tháo đường
5 trang 113 0 0 -
Một số lưu ý cho bệnh nhân Đái tháo đường
3 trang 104 0 0 -
Tài liệu 5 bước bạn nên thực hành để tránh bị sâu răng
7 trang 99 0 0