Danh mục

VÌ SAO MẶT NẠ PHÒNG ĐỘC LẠI CHỐNG ĐƯỢC KHÍ ĐỘC?

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 99.41 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tháng 4 năm 1915, vào một ngày trời râm mát, binh sĩ liên quân Anh - Pháp đang đồn trú dưới chiến hào, chiến trường hoàn toàn yên tĩnh. Đột nhiên từ phía quân Đức, một vùng chất khí màu xanh vàng như một màng yêu khí tràn tói theo gió bay về phía liên quân Anh Pháp. Vì không hề có phòng bị, liên quân Anh Pháp hoàn toàn hỗn loạn. Trong chiến hào vang lên tiếng ho, tiếng gào thét. Quân Đức đã xả khí clo về phía liên quân Anh Pháp. Đó là lần đầu tiên khí...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
VÌ SAO MẶT NẠ PHÒNG ĐỘC LẠI CHỐNG ĐƯỢC KHÍ ĐỘC?VÌ SAO MẶT NẠ PHÒNG ĐỘC LẠI CHỐNG ĐƯỢC KHÍ ĐỘC? Tháng 4 năm 1915, vào một ngày trời râm mát, binh sĩ liên quânAnh - Pháp đang đồn trú dưới chiến hào, chiến trường hoàn toàn yêntĩnh. Đột nhiên từ phía quân Đức, một vùng chất khí màu xanh vàngnhư một màng yêu khí tràn tói theo gió bay về phía liên quân AnhPháp. Vì không hề có phòng bị, liên quân Anh Pháp hoàn toàn hỗnloạn. Trong chiến hào vang lên tiếng ho, tiếng gào thét. Quân Đức đãxả khí clo về phía liên quân Anh Pháp. Đó là lần đầu tiên khí độc đượcsử dụng trong chiến tranh hiện đại. Từ đó mở màn cho cuộc chiến tranhhóa học. Người ta đã sử dụng rất nhiều loại chất độc hóa học. Ngoài khí clo,người ta còn dùng khí độc gây tổn tại thần kinh như sarin, soman(C7H1602PF), có chất độc làm bỏng da, có chất độc gây ngạt (nhưphosgen cocụ v.v...Để đổỉ phó với các loại vũ khí hóa học, các nhà khoa học đã phải tiếnhành nghiên cứu trong một thời gian dài. Rõ ràng là việc tìm mộtsốchất để tiêu trừ một số chất độc nào đó chưa đủ. Cần phải tìm đượcmột loại biện pháp chung có thể đối phó (chí ít với phần lớn) với chấtđộc.Qua quá trình nghiên cứu người ta tìm thấy phần lớn các chất độc trongđiều kiện nhiệt độ thường ở dạng chất lỏng hoặc chất rắn có nhiệt độsôi khá cao. Trong khi đó thì oxy cần cho quá trình hô hấp lại có nhiệtđộ sôi rất thấp (- 183°C). Oxy có nhiệt độ sôi thấp nên lực hấp dẫn giữacácphân tử của chúng rất bé, còn các chất có nhiệt độ sôi cao thì lựchấp dẫn giữa các phân tử của chúng sẽ lớn.Các nhà hóa học đã tìm được cách tách biệt hữu hiệu giữa oxy và cácchất độc đó, là dùng than hoạt tính. Than hoạt tính được chế tạo bằngcách dùng các vật liệu chứa nhiều cacbon như gỗ hoặc tốt hơn là vỏ hạthồ đào, vỏ dừa đem đốt ở nhiệt độ cao trong điều kiện thiếu không khíđể biến thành than gỗ. Sau đó cho than gỗ xử lý bằng hơi nước quánhiệt để loại bỏ lớp dầu trong các lỗ trong than gỗ, làm cho các lỗ trongthan gỗ trở thành các lỗ trống liên thông với nhau và diện tích bề mặtcủa than gỗ sẽ trở nên rất lớn. Than gỗ qua quá trình xử lý như trên sẽtrở thành than hoạt tính.Than hoạt tính thường có dạng những hạt nhỏ hoặc bột có màu đen.Diện tích bề mặt của than hoạt tính rất lớn. Trung bình 1g lượngthanhoạt tính có diện tích bề mặt hơn l000m2. Khi than hoạt tính tiếp xúcvới các chất khí hoặc chất lỏng, do có diện tích bề mặt rất lớn nên thanhoạt tính có thể hấp thụ lên bề mặt nhiều loại phân tử. đặc biệt với cácphân tử có lực hấp dẫn giữa chúng lớn. Nhờ đó một loại biện pháp cóthể đối phó với đại đa số các chất độc đã được tìm ra, đó chính là cácmặt nạ chống độc.Hiện nay, người ta thưòng sử dụng các mặt nạ phòng độc chủ yếu dựavào khả năng lọc của mặt nạ. Mặt nạ được tạo ra do một công cụ chếtạo bằng chất liệu lọc sắp xếp thành nhiều lớp. Trong các lớp lọc có cáclớp lọc khói độc là những chất độc ở dạng các hạt rắn hoặc các giọt nhỏchất độc ở dạng chất lỏng. Trong các tầng chất liệu lọc có thanhoạt tínhdùng để hấp thụ các chất độc ở dạng hơi hoặc khí trong không khí. Đểtăng cường hiệu quả phòng độc của than hoạt tính, trước hết người tacho ngâm than hoạt tính vào các dung dịch có chứa các oxyt đồng, bạc,crom với lượng rất nhỏ để cho bề mặt than hoạt tính có chứa một lượngrất nhỏ các oxyt đó. Khi các chất độc bị hấp thụ lên bề mặt của thanhoạt tính, do tác dụng xúc tác của các oxyt bạc, đồng, crom, các chấtđộc bị phân giải thành các chất không độc. Khi các chất độc bị lọc quacác lớp lọc, bị hấp thụ và tiêu độc đồng thòi cũng không ngừng cungcấp oxy cho sự hô hấp của người.VÌ SAO LOẠI SƠN ĐÁY THUYỀN, TÀU LẠI PHẢI KHÁC SƠNTHƯỜNG? Ngày xưa, một chiếc thuyền mới sơn, sau khi hạ thủy được ba tháng,tốc độ của thuyền sẽ giảm đi 10% so với lúc mới hạ thủy. Tàu thuyềnlưu hành sau nửa năm tốc độ chỉ còn khoảng một nửa so với lúc mới hạthủy. Nguyên nhân của hiện tượng trên liệu có phải do động cơ tàu thuyềnbị hư hỏng hay do vỏ thuyền, tàu bị mục nát gây nên chăng? cả hai yếutố vừa nêu trên đều không phải.Khi kéo tàu thuyền vào âu thuyền để sửa chữa, toàn bộ đáy thuyền lộ rakhỏi mặt nước. Bấy giờngười ta mới rõ nguyên nhân: phần đáy thuyềnchìm dưới nước xuất hiện chi chít các“chùm gai góc”, và chính các“chùm gai góc” này đã ngăn cản tàu thuyền lướt tới.Chúng ta biết rằng trong nước đại dương có nhiều loại sinh vật sốngtrôi nổi như: rong, sò, hà, trùng đục lỗ, khi còn ở dạng ấu trùngchúngthường trôi nổi trên mặt biển. Khi gặp tàu thuyền chúng lập tức bámvào đáy thuyền, lấy đáy thuyền làm “đất sống” hết ngày này qua ngàykhác. Đặc biệt ở các vùng biển nhiệt đới các loại sinh vật này càngnhiều và phát triển càng nhanh. Từ khi vỏ đáy thuyền bị các “cư dân” này bám vào và phát triển, tốcđộ chuyển động của thuyền sẽ ngày càng chậm dần. Theo như tính toánchỉ cần 46% diện tích đáy tàu thuyền có một lớp sinh vật dày 4mm thìphải tăng động lực của tàu thuyền lên 5% thì mới duy trì được tốc độchuyển động như cũ. Ch ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: