Còn gọi là đại hồi, bát giác hồi hương, đại hồi hương.Tên khoa học Illicium verum Hook.f.Thuộc họ Hồi Illiciaceae. Đại hồi hay bất giác hồi hương (Fructus Anisi Stellati hoặc Anisum stellatum hay Illicium) là quả chín phơi khô của cây hồi.A. Mô tả cây Hồi là một loại cây nhỡ cao 2-6m, hình dáng toàn cây thon hình quả trám, sanh tôt quanh năm, thân mọc thẳng, cành dễ gẫy.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vị thuốc Hồi Hồi Còn gọi là đại hồi, bát giác hồi hương, đại hồi hương. Tên khoa học Illicium verum Hook.f. Thuộc họ Hồi Illiciaceae. Đại hồi hay bất giác hồi hương (Fructus Anisi Stellati hoặc Anisumstellatum hay Illicium) là quả chín phơi khô của cây hồi. A. Mô tả cây Hồi là một loại cây nhỡ cao 2-6m, hình dáng toàn cây thon hình quả trám,sanh tôt quanh năm, thân mọc thẳng, cành dễ gẫy. Là mọc gần thành chùm 3-4 láở đầu cành, có cuống, phiến lá nguyên, dài 8-12cm, rộng 3-4cm, dòn, vò mát cómùi thơm. Hoa khá to, mọc đơn độc ở kẽ lá, cánh hoa màu trắng ở phía ngoài,hồng thắm ở mặt trong. Quả hồi (nhân dân vẫn gọi nhầm l à hoa hồi) tiếng thổ làmác hồi hay mác chác gồm 6-8 đại (cánh), có khi tới 12-13 đại xếp thành hìnhngôi sao, đường kính trung bình 2,5-3cm, dày 6-10mm. Tươi có màu xanh, khichín khô cứng thì có màu nâu hồng. Trên mỗi đại lá sẽ nứt làm hai, để lộ một hạtnâu màu nhạ, nhẵn bóng. Lá cuống, hoa và quả đều chứa tinh dầu. B. Phân bố, thu hái và chế biến Cây hồi đặc biệt chỉ mọc trong một khu vực nhỏ chiếm khoảng 5.000km2 ởtỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn một số ít ở hai tỉnh Quảng Tây và Quảnh Đông (TrungQuốc) giáp giới Việt Nam. Một số nơi khác cũng có trồng nhưng không đáng kểnhư Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên. Trước đây người ta thườnglẫn nó với cây hồi Nhật Bản Illicium anisatum Lour có chất độc, hoặc cây hồi núiIllcium griffithii cũng có chất độc. Hồi hái vào hai vụ tháng 7-8 (hồi mùa) và 11-12 (hồi chiêm). Ngoài hai vụchính, còn một vụ quả lép rụng sớm vào tháng 3. Hồi hài về phơi nắng cho khôhẳn. Dùng cất tinh dầu hay tiêu thụ nguyên quả làm thuốc. Mỗi cây, hàng năm cho từ 80-100kg quả tươi và như vậy luôn trong 40-50năm. Thường một năm được mùa, một năm kém. Trên thị trường người ta chia hồithành ba loại. Loại 1: có 8 cánh to đều nhau, màu nâu đỏ (hồi đại hông) Loại 2: có 3 cánh trở lên bị lép, màu nâu đen. Loại 3: có 3 cánh trở lên bị lép, màu nâu đen. Loại hồi xô gồm lẫn lộn cả 3 loại trên. C. Thành phần hoá học Trong quả hồi ngoài các chất như chất nhầy, đường, chủ yếu chứa trongtinh dầu tè 3-3,5 % (tươi) hoặc 9-10% hay hơn (khô). Tinh dầu hồi là một chấtlỏng không màu, hay vàng nhạt, tỷ trọng ở +150C đến 0,980, độ đông đặc từ 14đến 180C. Trong tinh dầu có 80-90% anethol, còn lại là tecpen, pinen, dipenten,limomem, estragola, sảola, tecpineola v.v... Lá hồi cũng chứa tinh dầu với thành phần gần tương tự. Độ đông đặc hơithấp hơn (13-140C), nhưng nếu trộn cả tinh dầu là và tinh dầu quả thì ta được mộttinh dầu có độ đông vào khoảng 100C. D. Công dụng và liều dùng Hồi là một vị thuốc được dùng trong cả đông y và tây y. Tây y dùng hồi làm thuốc trung tiên, giúp tiêu hoá, lợi sữa, tác dụng trên hệthần kinh và cơ (dịu đau, dịu co bóp) đ ược dùng trong đau dạ dày, đau ruột vàtrong những trường hợp dạ dày và ruột co bóp quá mạnh. Ngoài ra còn được dùnglàm rượu khai vi, làm thơm thuốc đánh răng. Tuy nhiên dùng nhiều và với liều quácao sẽ gây ngộ độc, với hiện t ượng say, tay chân run, sung huyết não và phổi,trạng thái ngây có khi tới co giật như động kinh. Theo tài liệu cổ đại hồi có vị cay, tính ôn, vào 4 kinh can, thận tỳ và vị. Cótác dụng đuổi hàn, kiện tỳ, khai vị, dùng chữa nôn mửa, đau bụng, bụng đầychướng, giải độc của thịt cá. Những ngươi âm hư, hoả vượng không dùng được. Thường dùng hiện nay làm thuốc giúp sự tiêu hoá ăn uống không tiêu, nônmửam đau nhức tê thấp. Mỗi ngày dùng 4 đến 8g dưới dạng thuốc sắc. Dùng ngoàingâm rượu xoa bóp chữa đau nhức, tê thấp. Ngoài ra hồi còn được dùng làm gia vị, chế húng lìu nấu thịt bò, các thịtkhác. Những vị thuốc khác mang tên hồi Ngoài cây đại hồi nói trên, hiện ta đang di thực thêm cây tiểu hồi hay hồihương có tên khoa học Foeniculum vulgare Miller thuộc họ Hoa tán. Đây là mộtloại cỏ nhỏ, phiến là cắt thành sợi, thoáng trông giống lá cây vò có mùi thơm củahồi. Quả nhỏ như hạt thóc được dùng làm thuốc với tên hồi hương hay tiểu hồihương hoặc tiểu hồi - Foeniculum - Fructus Foeniculi. Trong quả có 3-12% tinhdầu với thành phần chủ yếu là 50-70% anethol, ngoài ra còn estragol,metyleugnol, andehyt và axeton anisic, camphen. Cùng một công dụng như đạihồi. Tại các hiệu thuốc tây ở nước ta trước đây, cũng như dược điển cá nướcchâu âu thường dùng quả một cây khác: Dương hồi hương - Pimpinella anisum L.cũng thuộc họ Hoa tán. Quả nhỏ hình trứng, dưới đáy phình ra. Thành phần vàcông dụng tương tự như đại hồi và tiểu hồi. ...