Viêm gan do ngộ độc thuốc
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 181.02 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Biện chứng đông y: Can uất ứ độc. Cách trị: Thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết hóa ứ. Đơn thuốc: Thư can thang. Công thức: Sài hồ 12g, Liên kiều 12g, Xích thược 12g, Cam thảo 6g, Bản lam cǎn 12g, Hồng hoa 6g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Nếu thấp nhiều, rêu lưỡi bẩn thì thêm Nhân trần, Xa tiền thảo mỗi thứ 18g; đại tiện khô kết thêm Đại hoàng 9g; sốt thêm Hoàng cầm, Chi tử mỗi thứ 12g; ǎn ít thêm Bố tra diệp (là lá cây Phá bố) 18g, Bình lang 12g, người có...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Viêm gan do ngộ độc thuốc Viêm gan do ngộ độc thuốc Biện chứng đông y: Can uất ứ độc. Cách trị: Thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết hóa ứ. Đơn thuốc: Thư can thang. Công thức: Sài hồ 12g, Liên kiều 12g, Xích thược 12g, Cam thảo 6g, Bản lam cǎn 12g,Hồng hoa 6g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Nếu thấp nhiều, rêu lưỡi bẩn thì thêmNhân trần, Xa tiền thảo mỗi thứ 18g; đại tiện khô kết thêm Đại hoàng 9g; sốt thêmHoàng cầm, Chi tử mỗi thứ 12g; ǎn ít thêm Bố tra diệp (là lá cây Phá bố) 18g,Bình lang 12g, người có transaminase glutamic tương đối cao, hoặc liên tục khônggiảm thì thêm Đại hoàng 6g, Xa tiền thảo 18g, Lá nhân sâm 18g. Hiệu quả lâm sàng: Dùng Thư can thang gia giảm điều trị gần 100 ca viêm gan do ngộ độcthuốc đạt kết quả khá tốt. Theo dõi kỹ 30 ca, trong đó 28 ca uống thuốc trong vòng3 tháng tất cả đều trở lại bình thường, chiếm 93,3%. Chỉ riêng về transaminase glutamic, sau 1 tháng uống thuốc có 11 ca trở vềbình thường, trong vòng 2 tháng có 10 ca bình thường, 3 tháng có 7 ca. Nói chungchỉ uống thuốc trong vòng 2 tháng thì triệu chứng đều cải thiện hoặc mất hẳn, sauđó không xuất hiện lại các triệu chứng liên quan. Trong đó có 3 ca lao, sau khi ngừng thuốc chống lao thì cho Thư can thang,làm mất ngay các chứng tổn thương gan, transaminase glutamic giảm xuống bìnhthường, sau đó cho dùng đồng thời thuốc chống lao và Thư can thang theo dõi 2tháng, chưa thấy có hiện tượng tổn thương gan mới xuất hiện. Viêm gan mạn Biện chứng đông y: Can uất tỳ hư, khí trệ huyết ứ, thấp nhiệt chưa thanh. Cách trị: Kiện tỳ sơ can, hoạt huyết hóa ứ, phối hợp thêm thanh nhiệt lợithấp. Đơn thuốc: ích can thang. Công thức: Đảng sâm 12g, Bạch truật (sao) 10g, Thương truật (sao) 10g, Hoắc hương10g, Nhân trần 15 g, Đương quy 12g, Hương phụ 10g, Phật thủ 10g, Sơn trà 15g,Trạch lan 15g, Sinh mẫu lệ 15g, Vương bất lưu hành 12g. Sắc uống, mỗi ngày 1thang. Hiệu quả lâm sàng: Trần XX, nam 23 tuổi đến khám tháng 5 nǎm 1971. Nǎm 1964, bệnh nhânmắc bệnh viêm gan do virus cấp tính, đã điều trị nửa nǎm tại một bệnh viện, cáctriệu chứng và các chức nǎng gan đều đã có chuyển biến tốt và ra viện. Nhưngxuất viện mấy nǎm rồi vẫn thường đau ở vùng gan, khi mệt nhọc lại càng đauthêm. Tháng 10-1970 bắt đầu thấy đau ở vùng lách, đến tháng 5-1971 hai bênsườn đau nặng thêm, tay chân bải hỏai, không muốn ǎn uống, đại tiện lỏng, lòngbàn chân tay nóng. Khám thấy tình trạng nói chung còn khá, bờ gan trên ở giữasườn số 5, bờ dưới ở 2 cm dưới mép sườn trên đường vạch giữa đòn, chất ganmềm sờ đau, có thể sờ được lách tới 1cm, sờ hơi đau, mu tay phải có thể thấy bờrǎng cưa. Xét nghiệm: chức nǎng gan trong phạm vi bình thường, tiểu cầu120.000/mm3. Rêu lưỡi trắng, mạch trầm hoạt. Cho dùng ích can thang. Trongquá trình điều trị, đã gia giảm sử dụng Bội lan 10g, Sinh dĩ mễ 15g, Hồng hoa 12g,Miết giáp 12g. Đồng thời dùng cả các thuốc tây trợ gan. Sau hơn 2 tháng dùngthuốc thấy các triệu chứng đã chuyển biến tốt, ǎn ngủ và đại tiểu tiện bình thường,chân tay đỡ bải hỏai, lòng bàn tay chân không còn nóng, giảm hẳn đau ở vùng gantì, gan ở dưới sườn 1cm, sờ không thấy đau rõ, chưa sờ thấy lách. Xét nghiệm lạichức nǎng gan cũng chưa thấy gì khác thường, tiểu cầu tǎng lên tới 168.000/mm3.Sau đó dùng bài trên làm thành hoàn mà uống để củng cố tác dụng về sau. Bàn luận: Bệnh nhân này sưng gan và lách, xét nghiệm chức nǎng gan bình thườngmà chân tay lại bải hỏai, không thích ǎn uống, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng, mạchtrầm hoạt. Đó là các chứng thuộc can uất tỳ hư, khí trệ huyết ứ, hai bên sườn đauchướng, mạch hoạt, chứng tỏ là thấp nhiệt chưa thanh. Bởi vậy trong sự phù chínhthì nặng về kiện tỳ thư can. Trong bài có Đảng sâm, Thương bạch truật (sao), Kiệntỳ tháo thấp, Đương quy, Bạch thược dưỡng huyết nhu can, lại phối hợp các thuốcsơ can lý khí và hoạt huyết hóa ứ, khí hành ắt là huyết dễ hoạt, huyết hoạt ắt ứ dễtrừ, như vậy có tể có hiệu lực điều trị mong muốn. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Viêm gan do ngộ độc thuốc Viêm gan do ngộ độc thuốc Biện chứng đông y: Can uất ứ độc. Cách trị: Thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết hóa ứ. Đơn thuốc: Thư can thang. Công thức: Sài hồ 12g, Liên kiều 12g, Xích thược 12g, Cam thảo 6g, Bản lam cǎn 12g,Hồng hoa 6g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Nếu thấp nhiều, rêu lưỡi bẩn thì thêmNhân trần, Xa tiền thảo mỗi thứ 18g; đại tiện khô kết thêm Đại hoàng 9g; sốt thêmHoàng cầm, Chi tử mỗi thứ 12g; ǎn ít thêm Bố tra diệp (là lá cây Phá bố) 18g,Bình lang 12g, người có transaminase glutamic tương đối cao, hoặc liên tục khônggiảm thì thêm Đại hoàng 6g, Xa tiền thảo 18g, Lá nhân sâm 18g. Hiệu quả lâm sàng: Dùng Thư can thang gia giảm điều trị gần 100 ca viêm gan do ngộ độcthuốc đạt kết quả khá tốt. Theo dõi kỹ 30 ca, trong đó 28 ca uống thuốc trong vòng3 tháng tất cả đều trở lại bình thường, chiếm 93,3%. Chỉ riêng về transaminase glutamic, sau 1 tháng uống thuốc có 11 ca trở vềbình thường, trong vòng 2 tháng có 10 ca bình thường, 3 tháng có 7 ca. Nói chungchỉ uống thuốc trong vòng 2 tháng thì triệu chứng đều cải thiện hoặc mất hẳn, sauđó không xuất hiện lại các triệu chứng liên quan. Trong đó có 3 ca lao, sau khi ngừng thuốc chống lao thì cho Thư can thang,làm mất ngay các chứng tổn thương gan, transaminase glutamic giảm xuống bìnhthường, sau đó cho dùng đồng thời thuốc chống lao và Thư can thang theo dõi 2tháng, chưa thấy có hiện tượng tổn thương gan mới xuất hiện. Viêm gan mạn Biện chứng đông y: Can uất tỳ hư, khí trệ huyết ứ, thấp nhiệt chưa thanh. Cách trị: Kiện tỳ sơ can, hoạt huyết hóa ứ, phối hợp thêm thanh nhiệt lợithấp. Đơn thuốc: ích can thang. Công thức: Đảng sâm 12g, Bạch truật (sao) 10g, Thương truật (sao) 10g, Hoắc hương10g, Nhân trần 15 g, Đương quy 12g, Hương phụ 10g, Phật thủ 10g, Sơn trà 15g,Trạch lan 15g, Sinh mẫu lệ 15g, Vương bất lưu hành 12g. Sắc uống, mỗi ngày 1thang. Hiệu quả lâm sàng: Trần XX, nam 23 tuổi đến khám tháng 5 nǎm 1971. Nǎm 1964, bệnh nhânmắc bệnh viêm gan do virus cấp tính, đã điều trị nửa nǎm tại một bệnh viện, cáctriệu chứng và các chức nǎng gan đều đã có chuyển biến tốt và ra viện. Nhưngxuất viện mấy nǎm rồi vẫn thường đau ở vùng gan, khi mệt nhọc lại càng đauthêm. Tháng 10-1970 bắt đầu thấy đau ở vùng lách, đến tháng 5-1971 hai bênsườn đau nặng thêm, tay chân bải hỏai, không muốn ǎn uống, đại tiện lỏng, lòngbàn chân tay nóng. Khám thấy tình trạng nói chung còn khá, bờ gan trên ở giữasườn số 5, bờ dưới ở 2 cm dưới mép sườn trên đường vạch giữa đòn, chất ganmềm sờ đau, có thể sờ được lách tới 1cm, sờ hơi đau, mu tay phải có thể thấy bờrǎng cưa. Xét nghiệm: chức nǎng gan trong phạm vi bình thường, tiểu cầu120.000/mm3. Rêu lưỡi trắng, mạch trầm hoạt. Cho dùng ích can thang. Trongquá trình điều trị, đã gia giảm sử dụng Bội lan 10g, Sinh dĩ mễ 15g, Hồng hoa 12g,Miết giáp 12g. Đồng thời dùng cả các thuốc tây trợ gan. Sau hơn 2 tháng dùngthuốc thấy các triệu chứng đã chuyển biến tốt, ǎn ngủ và đại tiểu tiện bình thường,chân tay đỡ bải hỏai, lòng bàn tay chân không còn nóng, giảm hẳn đau ở vùng gantì, gan ở dưới sườn 1cm, sờ không thấy đau rõ, chưa sờ thấy lách. Xét nghiệm lạichức nǎng gan cũng chưa thấy gì khác thường, tiểu cầu tǎng lên tới 168.000/mm3.Sau đó dùng bài trên làm thành hoàn mà uống để củng cố tác dụng về sau. Bàn luận: Bệnh nhân này sưng gan và lách, xét nghiệm chức nǎng gan bình thườngmà chân tay lại bải hỏai, không thích ǎn uống, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng, mạchtrầm hoạt. Đó là các chứng thuộc can uất tỳ hư, khí trệ huyết ứ, hai bên sườn đauchướng, mạch hoạt, chứng tỏ là thấp nhiệt chưa thanh. Bởi vậy trong sự phù chínhthì nặng về kiện tỳ thư can. Trong bài có Đảng sâm, Thương bạch truật (sao), Kiệntỳ tháo thấp, Đương quy, Bạch thược dưỡng huyết nhu can, lại phối hợp các thuốcsơ can lý khí và hoạt huyết hóa ứ, khí hành ắt là huyết dễ hoạt, huyết hoạt ắt ứ dễtrừ, như vậy có tể có hiệu lực điều trị mong muốn. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Viêm gan do ngộ độc thuốc bệnh học và điều trị y học cổ truyền đông y trị bệnh bài giảng thiên gia DPGợi ý tài liệu liên quan:
-
thường thức bảo vệ sức khỏe mùa đông: phần 1 - nxb quân đội nhân dân
111 trang 259 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 224 0 0 -
6 trang 167 0 0
-
120 trang 166 0 0
-
Đề tài tiểu luận: Tổng quan về cây thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
83 trang 161 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 149 0 0 -
Tài liệu học tập Bệnh học nội khoa Y học cổ truyền
1503 trang 147 5 0 -
97 trang 124 0 0
-
Bài tiểu luận Triết học: Học thuyết âm dương, ngũ hành và vận dụng trong y, dược học cổ truyền
18 trang 117 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 117 0 0