Viêm gan siêu vi C cấp tính
Viêm gan siêu vi c cấp tính Nhiễm HCV cấp có thể biểu hiện một hình ảnh lâm sang thay đổi, từ nhiễm không triệu chứng đến viêm gan vàng da điển hình, dù vậy viêm gan virus C nặng thì rất hiếm. Có thể đa số bệnh nhân không có triệu chứng. Vì vậy, để nghiên cứu tỉ lệ mắc bệnh viêm gan virus C cấp thì rất khó, và tỉ lệ mắc viêm gan virus C cấp có triệu chứng ở Mỹ đã được báo cáo là 0,2 trường hợp trên 100.000...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Viêm gan siêu vi C cấp tính
Viêm gan siêu vi C cấp tính
Viêm gan siêu vi c cấp tính
Nhiễm HCV cấp có thể biểu hiện một hình ảnh lâm sang thay đổi, từ
nhiễm không triệu chứng đến viêm gan vàng da điển hình, dù vậy viêm gan virus
C nặng thì rất hiếm. Có thể đa số bệnh nhân không có triệu chứng. Vì vậy, để
nghiên cứu tỉ lệ mắc bệnh viêm gan virus C cấp thì rất khó, và tỉ lệ mắc viêm gan
virus C cấp có triệu chứng ở Mỹ đã được báo cáo là 0,2 trường hợp trên 100.000
dân vào năm 2005 và 1 trường hợp trên 100.000 dân vào năm 2001 ở Ý.
Một nghiên cứu tiền cứu đa trung tâm về viêm gan virus cấp ở Hàn Quốc cho thấy
viêm gan virus C cấp có triệu chứng chỉ bao gồm 2% tổng số các trường hợp viêm
gan virus cấp bao gồm từ viêm gan virus A đến virus E. Khoảng 70% các viêm
gan virus thì thuộc viêm gan virus A, và 5% là viêm gan virus B, 4 % là viêm gan
virus E, và 8% là nhiễm bởi cả viêm gan virus A và E. Những tỉ lệ anti- HCV
dương tính giữa những bệnh nhân viêm gan virus cấp ở các nước châu Á đã được
báo cáo như 3,9- 9,7% ở Trung quốc (hầu hết là genotype 1b), 4,9- 11% ở Ấn Độ
(genotype 3), 5,4% ở Malaysia và 10% ở Việt Nam.
I. LÂY NHIỄM SIÊU VI C
Virus viêm gan C
Viêm gan virus C thì bị lây nhiễm ban đầu do việc truyền từ máu hay trong lúc
sanh từ mẹ sang con. Mặc dù vậy máu là kho dự trữ chính, HCV RNA đã được
phát hiện ở những dịch khác của cơ thể từ những bệnh nhân đã bị nhiễm như nước
bọt, máu kinh , tinh dịch, nước tiểu, dịch não tủy và dịch báng. Mặc dù vậy khả
năng tồn tại của HCV chính xác trong môi trư ờng không biết được, những nghiên
cứu việc nhiễm của con tinh tinh cho thấy rằng HCV ở trong huyết thanh khô vẫn
có khả năng gây nhiễm tại nhiệt độ phòng trong vòng 16 giờ hay lâu hơn.
Quá trình lây nhiễm từ mẹ sang con bao gồm máu và những sản phẩm máu bị
nhiễm, những dụng cụ bị nhiễm (ví dụ như đụng phải những thiết bị y tế bị nhiễm,
những dụng cụ để xăm mình, kim châm cứu, dao cạo râu, và những dụng cụ cắt
sửa móng tay), và do tiếp xúc trong y tế(ví dụ: kim đâm, những vết thương). Việc
dùng thuốc chích là yếu tố nguy cơ thường xuyên nhất ở nhiều nước đã phát triển
làm tổn thương từ 30 đến 60%. Những quá trình y tế hay thẩm mỹ là yếu tố nguy
cơ có khả năng từ 14 đến 35% trong các trường hợp được báo cáo. Việc lây truyền
liên quan đến việc chăm sóc sức khỏe thì không thường xuyên , …
….điều đấy cho thấy rằng phương tiện cho việc lây truyền bao gồm những đường
thở trong gây mê đã bị nhiễm, việc lau chùi không thường xuyên dụng cụ nội soi ,
việc dùng lại không lưu ý xy lanh và kim tiêm đã bị nhiễm, và việc nhiễm của
những lọ thuốc nhiều liều như nước muối, chất gây mê, và những chất phóng xạ
dùng trong chẩn đoán. Vì vậy, những ống của thuốc tiêm nên được dùng duy nhất
cho một bệnh nhân. Khi những ống lớn hơn được dùng cho nhiều bệnh nhân, tất cả
thành phần thuốc đều phải được rút vào trong những xy lanh riêng biệt trước khi
dùng ở trong một vùng sạch được phân rõ.
Những nghiên cứu về quan hệ giới tính liên quan việc nhiễm viêm gan virus C do
những sản phẩm máu bị nhiễm đều chứng minh những tỉ lệ rất thấp việc lây nhiễm
cho người vợ/ chồng hay người bạn tình ổn định. Trong một nghiên cứu gần đây
về việc lây nhiễm do quan hệ tình dục ở giữa những cặp một vợ một chồng ở Ý
cho thấy chỉ có 3 người được tìm thấy là đã mắc HCV trong 77 cặp bị nhiễm HCV
mạn tính trong suốt 10 năm quan sát. Mặc dù, nguy cơ lây nhiễm qua quan hệ tình
dục của HCV là nhỏ, nhưng việc đồng nhiễm với HIV có thể gia tăng nguy cơ lây
nhiễm HCV, đặc biệt giữa những người đàn ông có quan hệ giới tính với những
người đàn ông.
Việc nhiễm HCV thông qua những lây truyền trong quá trình sinh đẻ đã được ước
tính xảy ra trong từ 2,7 đến 8,4% những trẻ được sinh ra ở các bà mẹ bị nhiễm
HCV, và một tỉ lệ cao hơn ở những đứa trẻ được sinh ra ở các bà mẹ đồng nhiễm
HIV và HCV.
Sự hiểu biết nguồn lây nhiễm HCV và giáo dục cho rộng rãi dân chúng sẽ giúp
ngăn ngừa những trường hợp mới. Những kế hoạch ngăn ngừa hiệu quả hơn và
những chương trình giám sát những quần thể dân số nguy cơ cao cũng đảm bảo
điều này.
II. CHẨN ĐOÁN
Mặc dù tiêu chuẩn chẩn đoán thông thường của viêm gan virus C cấp thì không
đồng bộ, nhưng sự biểu bộ lâm sàng cấp tính của viêm gan với sự gia tăng alamine
aminotransferases (ALT) ít nhất hơn 5 lần so với giới hạn cao bình thường và
huyết thanh dương tính với HCV RNA cùng với tiền sử rõ ràng là đã được chẩn
đoán là viêm gan C cấp. Xét nghiệm anti HCV có thể dương tính hay âm tính
trong suốt giai đoạn cấp tính và hầu hết các trường hợp cho thấy việc đảo ngược
huyết thanh từ âm sang dương của anti- HCV trong giai đoạn sau này.
Theo một quan sát tiền cứu của 179 người dùng thuốc tiêm chích, virus hiện diện
trong máu thì có trước sự gia tăng men ALT và bilirubin toàn phần trong từng
trường hợp là 45% và 77% bệnh nhân, và mức ALT không có tương quan gần nào
với mức HCV RNA hay sự tồn tại của virus. Tuy nhiên, không một cá thể nào có
vàng da hay xuất hiện triệu chứng, …..
Busch và cộn ...