Danh mục

Viêm não do virus (di chứng)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 188.49 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Biện chứng đông y: Tâm thận dương hư. Cách trị: Bổ ích tâm thận, ôn dương hóa khí. Đơn thuốc: Gia giảm thận khí hoàn (thang). Công thức: Câu kỉ tử 15g, Dâm dương hoắc 15g, Ba kích (thiên) 10g, Quế chi 10g, Sơn dược 20g, Vân phục linh 15g, Trạch tả 10g, Bạch thược 15g, Thục địa (hoàng) 15g, Sơn thù nhục 10g, Chích cam thảo 6g.Sắc uống, mỗi ngày 1 thang. Hiệu quả lâm sàng: Sầm XX, nam 28 tuổi, nông dân, nhập viện ngày 17-81977, bệnh từ 14 ngày trước, do lao động mệt mỏi lại bị...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Viêm não do virus (di chứng) Viêm não do virus (di chứng) Biện chứng đông y: Tâm thận dương hư. Cách trị: Bổ ích tâm thận, ôn dương hóa khí. Đơn thuốc: Gia giảm thận khí hoàn (thang). Công thức: Câu kỉ tử 15g, Dâm dương hoắc 15g, Ba kích (thiên) 10g, Quếchi 10g, Sơn dược 20g, Vân phục linh 15g, Trạch tả 10g, Bạch thược 15g, Thụcđịa (hoàng) 15g, Sơn thù nhục 10g, Chích cam thảo 6g.Sắc uống, mỗi ngày 1thang. Hiệu quả lâm sàng: Sầm XX, nam 28 tuổi, nông dân, nhập viện ngày 17-8-1977, bệnh từ 14 ngày trước, do lao động mệt mỏi lại bị mưa ướt sũng, đầu mìnhđau nhức, ǎn uống giảm ngon, nhưng không sốt, ho mửa. Ngày hôm sau bệnhnặng thêm, nói nǎng lẫn lộn, phản ứng chậm, đi không vững. Đến ngày thứ 3 thìngậm miệng không nói, có lúc lẩm bẩm, có vẻ ngớ ngẩn, đi lại khó khǎn, bước điloạng choạng, chân tay lạnh, hai tay không cầm được vật nặng, không nắm được,vận động lại không tự chủ được, thân mình thẳng đờ không co được, đại tiểu tiệnkhông tự chủ được, phân nát. Đã điều trị ở bệnh viện khu vực và huyện không kếtquả mấy. Khám thấy: thân nhiệt 37o C, mạch 53 lần/phút, huyết áp 120/80 mm Hg,thần chí hỏang hốt, động tác thiếu phối hợp, tinh thần mụ mẫm, mất ngôn ngữ mộtphần, trí lực giảm, hai bên đồng tử dãn rộng, phản xạ chậm với ánh sáng, đầu vàngũ quan không có dị hình, dưới da chưa thấy các điểm xuất huyết, tim phổi chưathấy gì khác thường, không nắn thấy gan lách, hai bên đầu gối phản xạ nhạy,Babinski bên trái dương tính, bên phải âm tính. Thử máu, chức nǎng gan, thận đềutrong giới hạn bình thường. Xét nghiệm dịch não tủy cũng không có gì khác lạ rõrệt, điện não đồ có bất thường rõ. Chẩn đoán lâm sàng là viêm não do virus. Bắtmạch thấy mạch trì, hoãn, vô lực, chất lưỡi nhạt, lưỡi dày, rêu lưỡi trắng mỏng mànhuận. Kết hợp tham khảo mạch và chứng thì đây là tâm thận dương hư. Cho điềutrị bằng Gia giảm thận khí hoàn (thang). Uống được 3 thang đã có thể dậy hoạtđộng, nói được nhiều hơn, chân tay chuyển ấm, mạch có khởi sắc. Uống 3 thangnữa, đại tiểu tiện đã có thể khống chế. Tuy nhiên sức định hướng vẫn còn kém, donguyên nhân tim, bèn thêm vào bài thuốc trên Thạch xương bồ 10g, (Chích) Viễnchí 10g. Uống tiếp 20 thang nữa, các chứng đều hết. Kiểm tra điện não đồ đã thấybình thường, khỏi bệnh ra viện. Sau đó nghỉ ngơi hơn nửa tháng rồi đi làm việcnhư thường. Theo dõi đã hơn 3 nǎm, tình hình tốt đẹp, không thấy có di chứng. Bàn luận: Di chứng sau viêm não do virus là một chứng hiểm nghèo rất ítgặp, nói chung thường cho là tình trạng này không đảo ngược được. Kỳ thựckhông hẳn như vậy, nếu có cách trị đúng thì phần lớn chức nǎng có thể phục hồi.Trên lâm sàng chúng tôi nghiệm rằng trong khi trị bệnh có thuốc men, có giữ gìn,người nhà phối hợp, dùng thuốc kiên trì, không tùy tiện nửa chừng đổi thuốc. Khitrị chứng này chúng tôi hay dùng phép ôn bổ thận dương, như Kim quy thận khíhoàn. Có phụ phiến quá nhiệt, khó dùng lâu được nên phải gia giảm mà dùng. Lâmsàng chứng minh là rất tốt. Nói chung hồi phục ngôn ngữ so với sự khôi phục vậnđộng có chậm hơn như kinh nghiệm đã cho thấy. Ngoài ra do tǎng tính mẫn cảmcủa da thịt, nên không thể phối hợp châm cứu hoặc không thể kéo dài. Các thuốcrất quý như An cung, Tử tuyết quá ư hàn lương dường như cũng không dùngđược, cần tiếp tục nghiên cứu thêm trên thực tiễn lâm sàng Viêm phế quản mạn tính kèm phế khí thũng Biện chứng đông y: Trung tiêu dương hư, tỳ mất chức nǎng kiện vận, khíkhông hóa thủy, tụ thấp thành ẩm, lâu ngày sinh đờm dâng lên tâm phế thành ho,xuyễn. Cách trị: Ôn dương khứ thấp hóa đàm. Đơn thuốc: Gia vị lý ẩm thang. Công thức: Bạch truật 15g, Can khương 9g, Quế chi 6g, Chích cam thảo6g, Bạch phục linh 20g, Quất hồng 9g, Hậu phác 9g, Đình lịch tử 9g, Tô tử 9g.Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Hiệu quả lâm sàng: Tiết XX, nữ, 47 tuổi, công nhân. Tới khám ngày 25-11-1978. Bệnh nhân bị ho, xuyễn đã hơn 7 nǎm, mỗi nǎm cứ đến mùa đông vàmùa hạ là bệnh lại nặng lên. Nửa tháng gần đây bệnh nhân bị ho, xuyễn rất nặng,khó thở, không nằm thẳng được, đã dùng các thuốc đông tây y nhưng bệnh vẫnkhông đỡ, lại kèm thêm các chứng váng đầu chóng mặt, tim đập hồi hộp, hơi thởngắn, ho ra rất nhiều đờm dãi trắng, lỏng, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng,mạch trầm hơi hoạt. Chiếu X quang phổi chẩn đoán là viêm phế quản mạn tínhkèm theo phế khí thũng. Cho uống Gia vị lý ẩm thang. Uống được 3 thang thì hoxuyễn giảm hẳn. Khi khám lại thấy trong ngực có cảm giác nóng bức, ra mồ hôitrộm, nên tiếp tục cho dùng bài thuốc trên, nhưng bỏ bớt Đình lịch tử và Tô tử,cho thêm Hoàng kỳ 15g, Bạch thược 9g, Táo nhân (sắc) 9g, uống tiếp 6 thang nữathì các triệu chứng trên đều giảm. Sau đó lại tiếp tục dùng Gia vị lý ẩm thang cógia giảm tùy theo triệu chứng cụ thể, uống thuốc được hơn 1 tháng thì bệnh tìnhổn định. ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: