Danh mục

VIÊM PHẾ QUẢN CẤP VÀ MẠN (Kỳ 5)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 157.16 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vấn đề tâm phế mạn:Nguyên nhân của Tâm phế mạn là do tăng áp lực tuần hoàn phổi và cơ chế bệnh sinh là sự co thắt của hệ thống mạch máu tiểu tuần hoàn (do phản xạ tự vệ đối với trạng thái thiếu O2 phế nang, thường gọi là phản xạ Von Euler) lâu ngày dẫn đến trở ngại tâm thất (P). Tâm phế mạn là một triệu chứng quan trọng của viêm phế quản mạn, chứng tỏ bệnh đã diễn biến đến giai đoạn nguy hiểm, bệnh nhân cần được quản lý chu đáo.Định nghĩa...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
VIÊM PHẾ QUẢN CẤP VÀ MẠN (Kỳ 5) VIÊM PHẾ QUẢN CẤP VÀ MẠN (Kỳ 5) 3. Vấn đề tâm phế mạn: Nguyên nhân của Tâm phế mạn là do tăng áp lực tuần hoàn phổi và cơchế bệnh sinh là sự co thắt của hệ thống mạch máu tiểu tuần hoàn (do phản xạ tựvệ đối với trạng thái thiếu O2 phế nang, thường gọi là phản xạ Von Euler) lâu ngàydẫn đến trở ngại tâm thất (P). Tâm phế mạn là một triệu chứng quan trọng của viêm phế quản mạn,chứng tỏ bệnh đã diễn biến đến giai đoạn nguy hiểm, bệnh nhân cần được quản lýchu đáo. Định nghĩa của WHO gọi tâm phế mạn căn cứ trên giải phẫu học: có sựphì đại rõ ràng của cơ tim. Nhưng nếu chờ đợi có dấu hiệu trên thì bệnh thường đãbị coi là quá muộn. Tiêu chuẩn lâm sàng đối với những triệu chứng như: tiếngngựa phi, nhịp tim nhanh, gan to, phình động mạch cảnh, phù chi dưới cũng đượcnhiều nhà lâm sàng bàn cãi chưa thống nhất thời điểm nào gọi là bắt đầu có Tâmphế mạn, lý do là từ cấu trúc tim bình thường đến khi có dày thất rõ rệt, hoạt độngcũng như hình thái cơ tim có những thay đổi dần trong quá trình lâu dài. Tùy quanđiểm, mỗi nhà lâm sàng có thể lấy một thời điểm trong quá trình đó để xác địnhTâm phế mạn. Kỹ thuật thông tim ra đời, đo được áp suất động mạch phổi là cơ sở đểbiết chắc ngay từ giai đoạn tim (P) đã bắt đầu quá tải. Giai đoạn này, thầy thuốc cóthể có tác động tốt nhất cho tim và phổi của bệnh nhân. Tuy nhiên không phải nơinào cũng thực hiện được kỹ thuật thông tim. Để khắc phục điều này, các nhà lâmsàng đã đề nghị có thể dùng một số tiêu chuẩn chẩn đoán gọi là “có khả năngmắc”. Sau đây là đề xuất của Chiche 1970. - Dấu hiệu báo động dễ có khả năng mắc Tâm phế mạn: * Viêm nhiễm phế quản từng đợt. * Gầy sút kèm mất nước. * Lơ mơ kèm buồn ngủ ban ngày. * Nhịp tim nhanh. - Các nguy cơ có thể mắc Tâm phế mạn: Có 3 mức độ: * Loại A: Chưa có tăng huyết áp phổi. . SaO2 bình thường. . PCO2 giữa 45 và 55 mm. . Thể tích hồng cầu bình thường. * Loại B: Huyết áp phổi có thể ở 30 - 50 mmHg và có khả năng mất bùkhi thấy SaO2 giảm dưới 0,92 (92%), PCO2 giữa 55 - 70 mmHg, dự trữ kiềm tăng,số lượng hồng cầu tăng. * Loại C: Chắc chắn có tăng huyết áp phổi và thường đã có suy tim (P):SaO2 giữa 0,51 và 0,53 (51 - 53%), PCO2 tăng 9,31 - 13,3 Kpa (70 - 100 mmHg),dự trữ kiềm trên 30 mEq, thể tích hồng cầu tăng. Căn cứ vào các dấu hiệu đơn giản trên, có thể dự đoán tình trạng huyếtáp tiểu tuần hoàn và qua đó sự hình thành Tâm phế mạn. 4. Vấn đề đàm: Trong viêm phế quản mạn, tính chất của đàm ho khạc ra cũng có nhữngthay đổi rất khác nhau, tùy diễn biến của bệnh: - Ở giai đoạn đầu, đờm thường loãng nhầy, khi có bội nhiễm thì có lẫn mủnhiều hoặc ít. Khối lượng, tính chất, màu sắc cũng rất khác nhau tùy giai đoạn vàtùy cả bệnh nhân. Việc theo dõi đờm nhiều khi cho những thông tin rất có giá trị,nên cần lưu ý hàng ngày về tính chất, màu sắc cũng như khối lượng đàm hoa khạcra. - Các chất tiết của phế quản hay còn gọi là đàm, có 2 tính chất quyết địnhkhả năng được bài tiết ra ngoài: đó là tính nhầy (vicosity) và tính đàn hồi(elasticity). Tính chất này có liên quan đến thành phần của các acid mucine và IgAtiết ra và thay đổi tùy trạng thái bệnh lý của phế quản. Trong viêm nhiễm, tínhnhày dính của chất tiết tăng, tính đàn hồi giảm. Sự thay đổi trong giới hạn nào đótạo thuận lợi cho hoạt động của các lông rung, dễ dàng của các chất ho khạc rangoài. Tuy nhiên trong viêm phế quản mạn do viêm nhiễm lâu ngày, các thay đổinhư trên kéo dài quá mức sẽ gây trở ngại cho việc thanh thải khí đạo. - Khi đờm quá đặc, thầy thuốc thường dùng các chất gọi là tiêu nhày, làmloãng đờm để bệnh nhân dễ ho khạc hơn. Tuy nhiên, nếu việc ho khạc này khôngđúng thời điểm, tính chất nhày dính sẽ bị giảm quá mức, đờm quá loãng, đồng thờitính đàn hồi cũng bị mất đi, hoạt động các lông rung bị giảm tác dụng và sẽ hìnhthành sự ứ trệ trong phế nang gây những bội nhiễm không đáng có và nhiều khinguy hiểm. Nếu việc chỉ định dùng các chất làm loãng đờm không chính xác nhiềukhi gây hại lớn. ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: