Viêm phổi do virus ở trẻ emViêm phổi do virus gây tổn thương cấp tính, lan tỏa hai bên phổi, gây suy hô hấp, tiến triển rất nặng. Nếu không được chẩn đoán đúng và điều trị kịp thời, não sẽ thiếu ôxy nghiêm trọng, có thể dẫn đến tử vong hoặc có di chứng nặng nề. Các loại virus thường gây viêm phổi ở trẻ em là: cúm, thủy đậu, virus hợp bào hô hấp, corona, H5N1. Bệnh có thể lây truyền qua đường hô hấp. Trẻ em có thể nhiễmsau khi tiếp xúc với bạn bè, người lớn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Viêm phổi do virus ở trẻ em Viêm phổi do virus ở trẻ em Viêm phổi do virus gây tổn thương cấp tính, lan tỏa hai bên phổi, gây suyhô hấp, tiến triển rất nặng. Nếu không được chẩn đoán đúng và điều trị kịp thời,não sẽ thiếu ôxy nghiêm trọng, có thể dẫn đến tử vong hoặc có di chứng nặng nề. Các loại virus thường gây viêm phổi ở trẻ em là: cúm, thủy đậu, virus hợp bàohô hấp, corona, H5N1. Bệnh có thể lây truyền qua đường hô hấp. Trẻ em có thể nhiễmsau khi tiếp xúc với bạn bè, người lớn mắc bệnh 2-3 tuần. Trẻ càng nhỏ thì diễn biếnbệnh càng nhanh, nặng. Nguy cơ viêm phổi do virus tăng ở những trẻ có bệnh lý khác kèm theo như suydinh dưỡng, suy giảm miễn dịch (trẻ nhiễm HIV/AIDS), một số dị tật bẩm sinh về timmạch, phổi, lồng ngực, đẻ thiếu cân. Ở những trẻ này, bệnh thường nặng và khó điềutrị hơn. Mặt khác, do chúng ta không có thuốc đặc hiệu kháng virus nên rất khó khănvà tốn kém cho điều trị. Ở giai đoạn sớm, trẻ có thể chỉ sốt nhẹ hoặc sốt cao liên tục, đau họng, ho húnghắng, chảy nước mắt, mũi, thở khò khè, ăn kém, bỏ bú, quấy khóc... Nếu không đượcđiều trị đúng và theo dõi sát, bệnh sẽ diễn biến nặng hơn, trẻ sốt cao, li bì, ho tăng lên,có đờm, xuất hiện khó thở, thở nhanh, rút lõm lồng ngực, bỏ bú hoặc bú kém, tím môi,tím đầu chi; có thể bị tiêu chảy, nôn, đau bụng. Nghe phổi có nhiều ran ẩm nhỏ hạt. Cóthể có rối loạn tuần hoàn như shock, trụy tim mạch... Tình trạng này kéo dài sẽ gâythiếu ôxy cung cấp cho não, trẻ sẽ li bì hoặc kích thích, co giật. Để chẩn đoán nguyên nhân viêm phổi, cần xét nghiệm máu, chụp X-quang timphổi, soi mũi họng, cấy dịch mũi họng... Nếu nghi ngờ viêm phổi do virus thì nên chụpphổi kiểm tra hằng ngày, thậm chí 2 lần/ngày. Các trường hợp viêm đường hô hấp cấp do virus nói chung cần được chẩn đoánvà theo dõi điều trị tại các cơ sở y tế. Không nên tự cho trẻ uống thuốc, đặc biệt là cácloại thuốc giảm ho, hạ sốt, kháng sinh vì sẽ gây lu mờ triệu chứng của bệnh, rất khókhăn cho chẩn đoán và điều trị. Khi phát hiện thì phải được nhập viện và cách ly. Trẻcần được chống suy hô hấp, chăm sóc tốt, hạ sốt, cân bằng rối loạn nội môi do sốt vàđộc tố của virus gây ra. Để phòng bệnh, cần bảo đảm cho trẻ có một sức khỏe tốt. Nơi ở phải đầy đủánh sáng, thoáng mát, lưu thông không khí tốt, ấm áp về mùa đông, vệ sinh sạch sẽ,súc miệng hằng ngày với trẻ lớn. Không hút thuốc, đun nấu trong phòng có trẻ nhỏ.Nhỏ mũi hằng ngày bằng natriclorit 9%o. Cách ly trẻ với người lớn và trẻ khác bị bệnhđể tránh lây lan thành dịch. Cần phát hiện sớm các biểu hiện của bệnh viêm đường hô hấp nói chung như:ho, sốt, chảy nước mũi, khó thở... và các rối loạn khác như tiêu chảy, ăn kém, chậmtăng cân. Cần đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nơi cư trú khám để được tư vấn và có hướngđiều trị thích hợp, tránh lây lan cho người khác, không nên tự dùng thuốc cho trẻ. Khimang thai, bà mẹ phải khám thai đầy đủ, bảo đảm thai nhi phát triển tốt, nên cho trẻ búmẹ từ ngay sau khi sinh và kéo dài đến 2 tuổi. Tiêm chủng đầy đủ cho trẻ theo hướng dẫn của cán bộ y tế (tiêm đủ các loạivacxin của Chương trình tiêm chủng mở rộng). Ngoài ra, còn có một số loại vacxinphòng viêm đường hô hấp, nhưng khi tiêm cần có sự hướng dẫn và tư vấn của cán bộ ytế nhằm bảo đảm hiệu quả và tránh những tai biến đáng tiếc có thể xảy ra. Vắc-xin phòng bệnh viêm phổi thùy Vắc-xin chống thành phần polysaccharide của phế cầu khuẩn (vắc-xinphòng bệnh viêm phổi thuỳ). Phế cầu khuẩn là một loại vi khuẩn gây bệnh viêm phổi và đôi khi gây nhiễmtrùng huyết đe doạ đến tính mạng. Nhiễm phế cầu khuẩn cực kỳ nguy hiểm ở nhữngngười già và những người đã bị cắt lách. Ðối tượng nào nên chủng ngừa vắc-xin chống phế cầu khuẩn? Những người từ 65 tuổi trở lên. Những người có bệnh mãn tính về tim phổi và những bệnh: tiểu đường, bệnhgan mãn tính, chứng nghiện rượu, u hạch bạch huyết, u tuỷ xương, bệnh thận, ngườinhận tạng ghép, rò dịch não tuỷ mãn tính, AIDS và những tình trạng hay phương phápđiều trị khác làm suy giảm hệ miễn dịch của cơ thể. Những người không còn đầy đủ chức năng của lách như bị thiếu máu hồng cầuliềm, người không còn lách do phẫu thuật hay do tai nạn. Dân tộc Alaskan và một bộ phận thổ dân da đỏ ở Mỹ, họ có nguy cơ nhiễm phếcầu khuẩn cao hơn và dễ bị biến chứng hơn những người khác. Vắc-xin chống phế cầu khuẩn nên được chủng ngừa ra sao? Vắc-xin chống phế cầu khuẩn đang được sử dụng hiện nay là loại vắc-xin chỉcần chủng ngừa một lần duy nhất. Tuy nhiên, những nhóm người sau đây nên đượctiêm nhắc lại nếu lần tiêm đầu cách đó hơn 5 năm : Những người được chủng ngừa trước tuổi 65. Những người suy giảm chức năng lách, bệnh thận mãn tính, suy giảm miễn dịchhay người đã được ghép tạng. Vắc-xin có thể được chủng ngừa cùng lúc với văc-xin c ...