Xác định Tải lượng bùn hoạt tính (MLSS) – So sánh các phương pháp
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 120.98 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
MLSS Hỗn hợp chất lỏng trong bể sục khí đã được định kỳ quan trắc và điều khiển bằng việc định kỳ lấy mẫu đột xuất “grab samples” hỗn hợp chất lỏng, cho mẫu chạy qua một tấm lọc, sấy khô phần cặn bám trên tấm lọc và sau đó cân khối lượng. Vào những năm 1970, các thiết bị online được giới thiệu các bộ giám sát liên tục, và điều khiển lý thuyết, nồng độ MLSS trong bể sục khí. Ý tưởng xác định hàm lượng MLSS là dựa trên cơ sở liên tục, việc tuần hoàn lại...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xác định Tải lượng bùn hoạt tính (MLSS) – So sánh các phương pháp Xác định Tải lượng bùn hoạt tính (MLSS) – So sánh các phương pháp MLSS Hỗn hợp chất lỏng trong bể sục khí đã được định kỳ quan trắc và điều khiển bằng việc định kỳ lấy mẫu đột xuất “grab samples” hỗn hợp chất lỏng, cho mẫu chạy qua một tấm lọc, sấy khô phần cặn bám trên tấm lọc và sau đó cân khối lượng. Vào những năm 1970, các thiết bị online được giới thiệu các bộ giám sát liên tục, và điều khiển lý thuyết, nồng độ MLSS trong bể sục khí. Ý tưởng xác định hàm lượng MLSS là dựa trên cơ sở liên tục, việc tuần hoàn lại dòng bùn hoạt tính có thể được đánh giá khách quan để duy trì một load ổn định thậm trí trong suốt quan trình thay đổi lưu lượng và load ảnh hưởng. Phương pháp chuẩn cho việc kiểm tra nước và nước thải liệt kê 6 phương pháp khác nhau trong việc xác định nồng độ chất rắn. Tất cả các phương pháp đều đòi hỏi mẫu được sấy khô ở một nhiệt độ nhất định trong một khoảng thời gian để đảm bảo nước trong mẫu sẽ bay hơi. Khoảng thời gian này được xác định bằng việc cân mẫu một vài lần và so sánh kết quả đọc được cho đến khi khối lượng mẫu không có sự thay đổi. Tại đây, mẫu đ ược cân lên và tính toán lượng chất rắn bằng việc sử dụng công thức mà dữ liệu đầu vào phải có tổng thể tích của mẫu. Ví dụ, một mẫu được lấy vào 100ml và sau đó được lọc qua một đĩa lọc glass-fiber. Sau đó đĩa lọc được đặt vào trong lò và sấy khô. Sau khi hoàn thành xong việc sấy mẫu, đĩa lọc được lấy ra khỏi lò và cân. Lấy tổng khối lượng cân được trừ đi khối lượng đĩa lọc. Nếu khối lượng tính toán của mẫu là 200 mg sau khi đã trừ đi khối lượng đĩa lọc, thì tổng chất rắn lơ lửng sẽ là 2000 mg/l. Số liệu này có được bằng cách nhân khối lượng tính toán với thể tích mẫu trên một lít (100 ml x 10 = 1l) (200mgx10 = 2000 mg). Phương pháp mẫu thủ công đột xuất xác định nồng độ chất rắn có 2 hạn chế khi nhìn với con mắt theo hướng kiểm soát MLSS trong bể sục khí. Vấn đề đầu tiên là sự thật thì kết quả được xác định hàng giờ sau khi lấy mẫu, trong một số trường hợp thì kết quả không được biết cho đến tận ngày hôm sau. Để kiểm sáot quá trình sử dụng dữ liệu này một giả định cho rằng nồng độ chất rắn không đổi theo thời gian xác định hoặc điều kiện thuận lợi biến được mối quan hệ của nồng độ chất rắn theo thời gian. Trong một nhà máy xử lý khép kín ở thành thị, người ta có thể điều khiển sơ bộ nồng độ MLSS bằng cách tạo ra cả hai giả định trên. Lưu lượng và tải lượng của một hệ thống xử lý đô thị khép kín sẽ không bị ảnh hưởng bởi các trận mưa hoặc dòng thải công nghiệp do đó loại bỏ cả hai điều kiện bất lợi nhất. Không may, phần lớn hệ thống xử lý được kết hợp và có một hợp phần công nghiệp trộn với nước thải đô thị. Một hệ thống xử lý kết hợp đơn giản là nước mưa tràn mặt được xử lý tương tự như nước thải. Thường là không phổ biển để lưu lượng của một trạm xử lý tăng lên gấp đôi trong suốt một trận mưa. Khi lưu lượng dòng chảy vào trong trạm xử lý tăng thì nồng độ chất rắn sẽ giảm đáng kể do sự pha loãng. Điều này sẽ pha lõng nồng độ MLSS nếu không có sự điều chỉnh dòng chảy trở lại của bùn hoạt tính. Độ pha loãng xảy ra có thể gây khó khăn cho việc dự báo do đó việc điều chỉnh RAS trong suốt trận mưa như vậy sẽ giúp việc dự đoán tốt nhất. Mối quan tâm thứ 2 trong việc lấy mẫu grab để phân tích trong phòng thí nghiệp là toàn bộ quá trình tiêu tốn rất nhiều thời gian cho nhân viên vận hành và nhân viên phòng thí nghiệm. Ví dụ, chi phí nhân công để phân tích 12 mẫu trong ngày sẽ khoảng $46.980 mỗi năm. Việc này dựa trên việc mẫu được phân tích 5 ngày trong một tuần với khoảng thời gian cho một mẫu là 1 tiếng. Ví dụ này cũng giả định cho việc tiêu tốn 25% để trang trải cho những lần mẫu không được lấy theo như dự kiến vì bất cứ lý do gì. Chi phí nhân công sử dụng cho ví dụ này là $20 một giờ. Đây là các tr Trạm được lắp đặt dụng cụ online để quan trắc và kiểm soát nồng độ MLSS. Đã có báo cáo về việc giảm 80% lượng mẫu gửi đến phòng thí nghiệm để phân tích. Sử dụng ví dụ ở trên, tiết kiệm cho trạm xử lý $37.584/năm trừ các chi phí thiết bị cho năm đầu tiên. Mối quan trâm thứ 3 trong việc lấy mẫu grab cho việc phân tích trong phòng thí nghiệm là độ chính xác và độ lặp lại. Trong khi độ chính xác tuyệt đối không quan trọng bằng độ lặp lại, thì độ chính xác của phương pháp vẫn là một yếu tố quan trọng trong việc kiểm soát nồng độ MLSS. Theo các phương pháp chuẩn cho việc kiểm tra nước và nước thải thì độ chính xác sẽ thay đổi tùy thuộc vào phương pháp đã sử dụng cùng với nồng độ thực tế. Phạm vi không chính xác cố hữu này từ khoảng 1 phần nghìn quá cao là 33 phần nghìn. Yếu tố khác ảnh hưởng đến độ chính xác tuyệt đối đó là bể sục khí là container của một quá trình động lực. Có sự thay đổi nồng độ chất rắn trong khắp lưu vực. Nó không phổ biến để hai mẫu được lấy tại cùng một địa điểm, cùng một thời gian có sự khác biệt là 300mg/l. Đối với mức độ lớn thì sự biến động được quyết định bởi việc pha trộn trong bể. Phần lớn mứ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xác định Tải lượng bùn hoạt tính (MLSS) – So sánh các phương pháp Xác định Tải lượng bùn hoạt tính (MLSS) – So sánh các phương pháp MLSS Hỗn hợp chất lỏng trong bể sục khí đã được định kỳ quan trắc và điều khiển bằng việc định kỳ lấy mẫu đột xuất “grab samples” hỗn hợp chất lỏng, cho mẫu chạy qua một tấm lọc, sấy khô phần cặn bám trên tấm lọc và sau đó cân khối lượng. Vào những năm 1970, các thiết bị online được giới thiệu các bộ giám sát liên tục, và điều khiển lý thuyết, nồng độ MLSS trong bể sục khí. Ý tưởng xác định hàm lượng MLSS là dựa trên cơ sở liên tục, việc tuần hoàn lại dòng bùn hoạt tính có thể được đánh giá khách quan để duy trì một load ổn định thậm trí trong suốt quan trình thay đổi lưu lượng và load ảnh hưởng. Phương pháp chuẩn cho việc kiểm tra nước và nước thải liệt kê 6 phương pháp khác nhau trong việc xác định nồng độ chất rắn. Tất cả các phương pháp đều đòi hỏi mẫu được sấy khô ở một nhiệt độ nhất định trong một khoảng thời gian để đảm bảo nước trong mẫu sẽ bay hơi. Khoảng thời gian này được xác định bằng việc cân mẫu một vài lần và so sánh kết quả đọc được cho đến khi khối lượng mẫu không có sự thay đổi. Tại đây, mẫu đ ược cân lên và tính toán lượng chất rắn bằng việc sử dụng công thức mà dữ liệu đầu vào phải có tổng thể tích của mẫu. Ví dụ, một mẫu được lấy vào 100ml và sau đó được lọc qua một đĩa lọc glass-fiber. Sau đó đĩa lọc được đặt vào trong lò và sấy khô. Sau khi hoàn thành xong việc sấy mẫu, đĩa lọc được lấy ra khỏi lò và cân. Lấy tổng khối lượng cân được trừ đi khối lượng đĩa lọc. Nếu khối lượng tính toán của mẫu là 200 mg sau khi đã trừ đi khối lượng đĩa lọc, thì tổng chất rắn lơ lửng sẽ là 2000 mg/l. Số liệu này có được bằng cách nhân khối lượng tính toán với thể tích mẫu trên một lít (100 ml x 10 = 1l) (200mgx10 = 2000 mg). Phương pháp mẫu thủ công đột xuất xác định nồng độ chất rắn có 2 hạn chế khi nhìn với con mắt theo hướng kiểm soát MLSS trong bể sục khí. Vấn đề đầu tiên là sự thật thì kết quả được xác định hàng giờ sau khi lấy mẫu, trong một số trường hợp thì kết quả không được biết cho đến tận ngày hôm sau. Để kiểm sáot quá trình sử dụng dữ liệu này một giả định cho rằng nồng độ chất rắn không đổi theo thời gian xác định hoặc điều kiện thuận lợi biến được mối quan hệ của nồng độ chất rắn theo thời gian. Trong một nhà máy xử lý khép kín ở thành thị, người ta có thể điều khiển sơ bộ nồng độ MLSS bằng cách tạo ra cả hai giả định trên. Lưu lượng và tải lượng của một hệ thống xử lý đô thị khép kín sẽ không bị ảnh hưởng bởi các trận mưa hoặc dòng thải công nghiệp do đó loại bỏ cả hai điều kiện bất lợi nhất. Không may, phần lớn hệ thống xử lý được kết hợp và có một hợp phần công nghiệp trộn với nước thải đô thị. Một hệ thống xử lý kết hợp đơn giản là nước mưa tràn mặt được xử lý tương tự như nước thải. Thường là không phổ biển để lưu lượng của một trạm xử lý tăng lên gấp đôi trong suốt một trận mưa. Khi lưu lượng dòng chảy vào trong trạm xử lý tăng thì nồng độ chất rắn sẽ giảm đáng kể do sự pha loãng. Điều này sẽ pha lõng nồng độ MLSS nếu không có sự điều chỉnh dòng chảy trở lại của bùn hoạt tính. Độ pha loãng xảy ra có thể gây khó khăn cho việc dự báo do đó việc điều chỉnh RAS trong suốt trận mưa như vậy sẽ giúp việc dự đoán tốt nhất. Mối quan tâm thứ 2 trong việc lấy mẫu grab để phân tích trong phòng thí nghiệp là toàn bộ quá trình tiêu tốn rất nhiều thời gian cho nhân viên vận hành và nhân viên phòng thí nghiệm. Ví dụ, chi phí nhân công để phân tích 12 mẫu trong ngày sẽ khoảng $46.980 mỗi năm. Việc này dựa trên việc mẫu được phân tích 5 ngày trong một tuần với khoảng thời gian cho một mẫu là 1 tiếng. Ví dụ này cũng giả định cho việc tiêu tốn 25% để trang trải cho những lần mẫu không được lấy theo như dự kiến vì bất cứ lý do gì. Chi phí nhân công sử dụng cho ví dụ này là $20 một giờ. Đây là các tr Trạm được lắp đặt dụng cụ online để quan trắc và kiểm soát nồng độ MLSS. Đã có báo cáo về việc giảm 80% lượng mẫu gửi đến phòng thí nghiệm để phân tích. Sử dụng ví dụ ở trên, tiết kiệm cho trạm xử lý $37.584/năm trừ các chi phí thiết bị cho năm đầu tiên. Mối quan trâm thứ 3 trong việc lấy mẫu grab cho việc phân tích trong phòng thí nghiệm là độ chính xác và độ lặp lại. Trong khi độ chính xác tuyệt đối không quan trọng bằng độ lặp lại, thì độ chính xác của phương pháp vẫn là một yếu tố quan trọng trong việc kiểm soát nồng độ MLSS. Theo các phương pháp chuẩn cho việc kiểm tra nước và nước thải thì độ chính xác sẽ thay đổi tùy thuộc vào phương pháp đã sử dụng cùng với nồng độ thực tế. Phạm vi không chính xác cố hữu này từ khoảng 1 phần nghìn quá cao là 33 phần nghìn. Yếu tố khác ảnh hưởng đến độ chính xác tuyệt đối đó là bể sục khí là container của một quá trình động lực. Có sự thay đổi nồng độ chất rắn trong khắp lưu vực. Nó không phổ biến để hai mẫu được lấy tại cùng một địa điểm, cùng một thời gian có sự khác biệt là 300mg/l. Đối với mức độ lớn thì sự biến động được quyết định bởi việc pha trộn trong bể. Phần lớn mứ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
thí nghiệm bùn hoạt tính xử lý nước thải phương pháp dùng bùn hoạt tính làm sạch nước thải bảo vệ môi trường bể bùn hoạt tínhTài liệu liên quan:
-
Tài liệu Giáo dục địa phương tỉnh Bắc Kạn lớp 1
60 trang 690 0 0 -
báo cáo chuyên đề GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
78 trang 288 0 0 -
10 trang 287 0 0
-
Biểu mẫu Cam kết an toàn lao động
2 trang 237 4 0 -
Báo cáo đánh giá tác động môi trường: Đánh giá tác động môi trường xây dựng nhà máy xi măng
63 trang 181 0 0 -
191 trang 174 0 0
-
Giải pháp xây dựng TCVN và QCVN về xe điện hài hòa với tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế
2 trang 145 0 0 -
130 trang 143 0 0
-
Bài giảng Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường - Chương 0: Giới thiệu học phần (Năm 2022)
8 trang 139 0 0 -
37 trang 139 0 0