Danh mục

Xác lập một số chỉ số đa dạng về loài thực vật ở vườn quốc gia Bạch Mã

Số trang: 6      Loại file: doc      Dung lượng: 100.50 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Để đánh giá được mức độ đa dạng, phong phú của hệ động thực vật tại Bạch Mã nói chung, nguồn tài nguyên thực vật nói riêng cần phải có những nguồn thông tin khoa học và chính xác về chúng, đặc biệt là các thông tin định lượng trong nghiên cứu đa dạng sinh học để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp bảo tồn. Mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xác lập một số chỉ số đa dạng về loài thực vật ở vườn quốc gia Bạch Mã TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 21, 2004 XÁC LẬP MỘT SỐ CHỈ SỐ ĐA DẠNG  VỀ LOÀI THỰC VẬT Ở VƯỜN QUỐC GIA BẠCH MÃ  Lê Thị Diên  Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế Lê Doãn Anh Vườn Quốc gia Bạch Mã ĐẶT VẤN ĐỀ Nằm trong hệ  thống rừng đặc dụng, Vườn Quốc gia Bạch Mã có giá trị  lớn   không chỉ về mặt văn hóa, du lịch, cảnh quan, mà còn có tác dụng phòng hộ, bảo vệ  môi trường, bảo vệ nguồn nước, chống xói mòn. Đặc biệt tài nguyên sinh vật ở đây   rất đa dạng và phong phú, là nơi giao lưu hội tụ  của nhiều luồng động thực vật   thuộc các vùng địa lý khác nhau. Mặc dù chưa thống kê đầy đủ  về  danh lục động   thực vật nhưng trong 88 loài có nguy cơ bị tuyệt chủng được ghi vào sách đỏ thế giới   thì Vườn Quốc gia Bạch Mã có 20 loài, chiếm 23%. Có thể nói Bạch Mã là một kho  tài nguyên sinh vật sống vô cùng quý giá mà chúng ta cần tập trung đầu tư  nghiên   cứu, giữ gìn, bảo tồn và phát triển.  Trong những năm qua, Vườn Quốc gia Bạch Mã đã có một số công trình nghiên  cứu về rừng, nhưng phần lớn các công trình này mới chỉ tập trung vào việc thống kê,  phát hiện các loài hiện có, mà ít có công trình nào tiếp cận nghiên cứu các đối tượng   rừng theo xu thế hiện đại, nhất là nghiên cứu về đa dạng sinh học theo phương pháp  toán sinh học.     Để đánh giá được mức độ đa dạng, phong phú của hệ động thực vật tại Bạch   Mã nói chung, nguồn tài nguyên thực vật nói riêng cần phải có những nguồn thông tin   khoa học và chính xác về chúng, đặc biệt là các thông tin định lượng trong nghiên cứu  đa dạng sinh học để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp bảo tồn. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: Những loài cây gỗ ở các trạng thái rừng non (IIA, IIB), rừng nghèo (IIIA1), rừng  trung bình (IIIA2) và rừng giàu (IIIA3, IIIB, IV) tại Vườn quốc gia Bạch Mã.  2. Phương pháp nghiên cứu: 31 Số  liệu được thu thập tại các ô tiêu chuẩn điển hình tạm thời trên hệ  thống  tuyến song song cách đều đi qua các trạng thái rừng có trong khu vực. Mỗi trạng thái  rừng lập 2 ô tiêu chuẩn, diện tích mỗi ô 2000m2. Chỉ số Simpson, định lượng đa dạng  sinh học bằng lý thuyết thông tin (H), hàm số  liên kết Shannon ­ Weaver (H') và chỉ  số hợp lý được sử  dụng để  đánh giá mức độ  đa dạng loài thực vật tại Vườn Quốc   gia Bạch Mã.  KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Trong tự nhiên mối quan hệ giữa các loài là vấn đề rất phức tạp. Có những loài  trong suốt quá trình sống luôn dựa vào các loài khác và sự tồn tại của loài này có thể  là nguyên nhân cơ bản cho sự sinh trưởng và phát triển của loài khác. Trong rừng tự  nhiên hỗn loài, sự đa dạng làm phong phú thêm về cơ cấu mạng lưới thức ăn. Một số  tác giả sau khi nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng, sự phong phú của loài đã làm tăng   tính  ổn định về  mặt sinh thái cho quần xã sinh vật sinh trưởng, phát triển và lúc đó   lượng sinh khối trên một đơn vị  diện tích là tối đa. Trước đây, khi nghiên cứu sự  phong phú về loài, các nhà khoa học chỉ mới dừng lại ở mức độ định tính, mô tả. Các   nghiên cứu mới đây nhất đã sử dụng một số chỉ số nhằm đánh giá mức độ phong phú   đa dạng của tổ thành thực vật. Bài báo này dùng một số chỉ số dễ sử dụng trong lâm   nghiệp như chỉ số Simpson, lý thuyết thông tin, hàm số liên kết Shannon ­ Weaver và  chỉ số hợp lý để định lượng mức độ  đa dạng sinh học loài cây gỗ  cho các trạng thái   rừng.    1. Chỉ số Simpson: Đây là chỉ tiêu đầu tiên khi nghiên cứu đa dạng sinh học được Simpson đề xuất   năm 1949. Chỉ số Simpson được dùng để  đánh giá sự đa dạng về số lượng loài của  một quần cư. Tuy nhiên, chỉ số này bị phụ thuộc vào kích thước mẫu thu thập và số  cá thể  của mỗi mẫu. Để  giảm bớt sự   ảnh hưởng của kích thước lấy mẫu tới kết   quả, người ta thường sử dụng công thức của Poelou (1977) để  hiệu đính kích thước   mẫu lấy. Kết quả tính toán cho ra các giá trị D1 và D2, trong đó D1 và D2 lấy các giá trị  từ 0 đến 1. Nếu D1, D2 = 0 thì quần cư chỉ có một loài duy nhất, lúc đó sự đa dạng về  số  lượng loài là thấp nhất. Ngược lại, nếu D1, D2 càng gần bằng 1 thì quần cư  rất  đông đúc về  số  lượng loài và mức độ  đồng đều về  số  lượng cá thể  trong mỗi loài  càng cao.  Bảng 1: Kết quả định lượng đa dạng loài thực vật bằng chỉ số Simpson Á nhiệt đới Nhiệt đới 32 Trạng  thái rừng IIa IIb IIIA1 IIIA2 IIb IIIA1 IIIA2 IIIA3 IIIB IV Chỉ tiêu N 171 357 208 202 207 201 161 152 164 145 D1 0,9689 0,9364 0,9556 0,9341 0,9712 0,9424 0,9634 0,9411 0,9159 0,8919 0,974 0,939 0,960 0,938 0,975 0,947 0,947 0,921 D2 0,9694 0,8982 7 1 2 8 9 1 3 6 (Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra ngoài thực địa) Trong đó: N là số lượng cây gỗ  lớn trên ô tiêu chuẩn, D1 là chỉ số Simpson, D2  là chỉ số Simpson sau khi hiệu đính cho kích thước mẫu lấy. Từ kết quả nghiên cứu ở bảng trên có thể nhận thấy giá trị D 2 bao giờ cũng cao  hơn D1 ở tất cả các trạng thái rừng do công thức tính D2 đã được hiệu chỉnh cho kích  thước mẫ ...

Tài liệu được xem nhiều: