Bài báo đề cập đến sáu năng lực hiểu biết định lượng theo quan điểm của Niss (2003) và Turner (2011), gồm giao tiếp với toán học, phân tích và xây dựng mô hình toán học, suy luận, sử dụng kí hiệu thuật ngữ toán học và thực hiện các phép toán, biểu diễn, giải quyết vấn đề.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xây dựng thang đánh giá năng lực hiểu biết định lượng của học sinh khi giải quyết tình huống toán học hóa
XÂY DỰNG THANG ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC HIỂU BIẾT ĐỊNH LƯỢNG
CỦA HỌC SINH KHI GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG TOÁN HỌC HÓA
NGUYỄN THỊ TÂN AN
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Bài báo đề cập đến sáu năng lực hiểu biết định lượng theo quan
điểm của Niss (2003) và Turner (2011), gồm giao tiếp với toán học, phân
tích và xây dựng mô hình toán học, suy luận, sử dụng kí hiệu thuật ngữ toán
học và thực hiện các phép toán, biểu diễn, giải quyết vấn đề. Các năng lực
này có thể được đánh giá riêng lẻ, nhưng qua phân tích các hoạt động của
quá trình toán học hóa, chúng tôi nhận thấy các tình huống toán học hóa
chứa đựng yếu tố định lượng đòi hỏi học sinh phải phối hợp cả 6 năng lực
trên trong quá trình giải quyết vấn đề thực tế. Vì vậy, dựa trên thang đánh
giá của Hiệp hội các trường Đại học Mỹ ACC&U (2009), bài báo đề xuất
thang đánh giá các năng lực hiểu biết định lượng của học sinh một cách phù
hợp khi giải quyết tình huống toán học hóa.
Từ khóa: Hiểu biết định lượng, Năng lực hiểu biết định lượng, Tình huống
toán học hóa
1. GIỚI THIỆU
Trong lớp học toán, giáo viên thường tập trung dạy khái niệm, công thức, qui tắc, thuật
toán để trang bị cho học sinh những kiến thức và kỹ năng giúp giải quyết các hiện tượng
toán học cơ bản như giải phương trình, bất phương trình, vẽ đồ thị… Tuy nhiên trong
thực tế, các tình huống có thể sử dụng toán học để giải quyết thường đa dạng, phức tạp,
các vấn đề không xuất hiện cùng với các quy tắc, chỉ dẫn, gợi ý mà thường đòi hỏi học
sinh phải có khả năng tìm ra kiến thức toán liên quan, khả năng chuyển đổi tình huống
được cho theo ngôn ngữ toán học và phải kết hợp nhiều nội dung toán khác nhau. Khả
năng để có thể áp dụng các kiến thức toán cơ bản vào các ngữ cảnh hàng ngày là biểu
hiện của hiểu biết định lượng.
Mặc dù yêu cầu về hiểu biết định lượng (HBĐL) chỉ mới xuất hiện ở cuối thế kỉ 20,
nhưng HBĐL ngày càng giành được nhiều sự quan tâm trong giáo dục toán và là một
trong những năng lực HS cần được trang bị ở nhà trường, điều này cũng chi phối việc
đánh giá và ảnh hưởng đến chương trình toán của nhiều nước như Anh, Đức, Úc, Mỹ,
Đan Mạch, Hà Lan… (Madison và Steen, 2007, [7]). Để phát triển HBĐL cho học sinh,
theo Turner (2011, [10]) các em cần được chú ý rèn luyện sáu năng lực thành phần bao
gồm giao tiếp với toán học, phân tích và xây dựng mô hình toán học, suy luận, sử dụng
kí hiệu thuật ngữ toán học và thực hiện các phép toán, biểu diễn, giải quyết vấn đề.
Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy các tình huống toán học hóa có thể giúp phát triển các
năng lực HBĐL, bởi vì mỗi bước của quá trình giải quyết tình huống đều cần cả sáu
năng lực trên. Do đó, với mong muốn có thể đo lường các bài làm của học sinh để đánh
giá mức độ phát triển HBĐL, trong bài báo này, chúng tôi đã lựa chọn xây dựng thang
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 01(29)/2014: tr. 5-15
6
NGUYỄN THỊ TÂN AN
đánh giá các năng lực hiểu biết định lượng của học sinh khi giải quyết tình huống toán
học hóa.
2. TÌNH HUỐNG TOÁN HỌC HÓA VÀ QUÁ TRÌNH TOÁN HỌC HÓA
a. Tình huống toán học hóa
Các nghiên cứu từ lý thuyết và thực hành dạy học đã chỉ ra những khó khăn thường gặp
khi sử dụng tình huống thực tế trong lớp học toán như học sinh thiếu kiến thức thực tế
liên quan đến tình huống, thiếu kinh nghiệm chuyển đổi giữa toán học và thực tế theo cả
hai chiều. Hơn nữa, các tình huống thực tế thường có nhiều cách khác nhau để tiếp cận
nên giáo viên khó dự đoán trước các cách giải quyết của học sinh cũng như khó hướng
dẫn các em trong quá trình giải quyết (Blum, 2011, [3], Ikeda, 2007, [5], Kaiser,
2006, [6]). Để hạn chế những khó khăn nêu trên nhưng vẫn đáp ứng mục tiêu tăng
cường dạy học toán theo hướng thực tế, chúng tôi quan tâm đến những tình huống đặt
trong ngữ cảnh thực tế nhưng có định hướng giáo dục, mà chúng tôi gọi là tình huống
toán học hóa (THH).
Tình huống toán học hóa là tình huống xuất phát từ thế giới bên ngoài lĩnh vực toán
học, chứa đựng những yếu tố quan trọng của thực tế, nhưng đã được đơn giản hóa, lý
tưởng hóa, đặc biệt hóa, thêm các điều kiện, giả thiết phù hợp, hạn chế những yếu tố
không cần thiết cho phép học sinh tiếp cận với một số công cụ toán học theo ý đồ của
giáo viên, tuy nhiên vẫn còn phản ánh đúng một phần nào đó tình huống thực tế ban đầu
(Nguyễn, 2013, [1]).
So với tình huống thực tế, tình huống toán học hóa giúp học sinh hình dung rõ hơn về
tình huống, có thêm dữ liệu thông tin vì vậy quá trình xây dựng mô hình toán học diễn
ra thuận lợi hơn.
b. Quá trình toán học hóa
Để giải quyết một tình huống toán học hóa, học sinh cần lựa chọn mô hình toán phù
hợp, làm việc trong môi trường toán, sau đó thể hiện và đánh giá kết quả trong ngữ cảnh
ban đầu, đôi khi cần phải điều chỉnh mô hình toán hoặc lặp lại quá trình nhiều lần cho
đến khi có được một kết quả hợp lý. Đó là các bước chính của quá trình toán học hóa
được thể hiện trong s ...