Danh mục

Y học Cổ truyền với miễn dịch và khả năng kháng khuẩn (Kỳ 2)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 121.58 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong nghiên cứu cơ chế thận hư , các tác giả đã chứng minh được thuốc bổ thận có thể điều chỉnh và nâng cao tính phản ứng hệ thống của chất vỏ thượng thận và tuyến yên. Điều này có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn trong việc dùng kích tố nội tiết. Trong những thập kỷ gần đây, kết hợp Trung - Tây y để điều trị các bệnh tự thân miễn dịch ngày càng được phát triển và đã thu được hiệu quả cao. Tại các trung tâm nghiên cứu Y học Cổ truyền của Bắc...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học Cổ truyền với miễn dịch và khả năng kháng khuẩn (Kỳ 2) Y học Cổ truyền với miễn dịch và khả năng kháng khuẩn (Kỳ 2) Trong nghiên cứu cơ chế thận hư , các tác giả đã chứng minh đượcthuốc bổ thận có thể điều chỉnh và nâng cao tính phản ứng hệ thống của chất vỏthượng thận và tuyến yên. Điều này có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn trong việc dùngkích tố nội tiết. Trong những thập kỷ gần đây, kết hợp Trung - Tây y để điều trị các bệnh tựthân miễn dịch ngày càng được phát triển và đã thu được hiệu quả cao. Tại cáctrung tâm nghiên cứu Y học Cổ truyền của Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, cónhiều tác giả nhận thấy luput ban đỏ, viêm da - cơ, xơ cứng bì... đều là chứng hư ởmức độ khác nhau. Sau khi điều trị bằng thuốc phù chính thì hầu hết các bệnhnhân, qua kiểm tra xét nghiệm và lâm sàng, đều thấy các chỉ tiêu miễn dịch đượccải thiện, bệnh ổn định. Theo nghiên cứu của Y viện Hiệp Hoà - Bắc Kinh, điều trị bệnh viêm da -cơ cấp tính bằng “thanh doanh giải độc thang gia giảm” và điều trị viêm da - cơmãn tính bằng “bổ trung ích khí gia giảm” kết hợp với kích tố và điều trị hỗ trợkhác. Trong tổng số 27 bệnh nhân, thấy kết quả tốt 24, không kết quả và tử vong3 (vì có kết hợp với nham chứng). Những nghiên cứu của các địa phương trên đã chứng minh các vị thuốc bổích khí - huyết có tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch (nhân sâm, bạch truật,tử hà sa, ngũ gia bì, hà thủ ô...). Theo Lưu Minh Nhuệ(Tạp chí Trung y, 1995), nghiên cứu điều chế thuốctừ hoàng kỳ để điều trị bệnh vẩy nến thể thông thường, dùng hoàng kỳ chế (gồm:hoàng kỳ sắc, cao hoàng kỳ và hoàng kỳ dạng tiêm ) để điều trị 204 bệnh nhân bịbệnh vẩy nến thể thông thường, thấy kết quả : khỏi hoàn toàn 47 (20,6%), khỏi cơbản 62 (30,4%), tiến triển tốt 94 (44,6%), không kết quả 9 (4,4%). Tổng số bệnhnhân có tỷ lệ tốt là 95,6%. Theo dõi chỉ tiêu miễn dịch trước và sau điều trị “hoàng kỳ chế tễ” thấy ởnhững bệnh nhân vẩy nến thể thông thường đều có tác dụng tăng cường miễn dịchdịch thể và miễn dịch tế bào. Trong những năm gần đây, hoàng kỳ được dùng làmthuốc bổ khí và còn được dùng trong điều trị bệnh tạo keo ngày càng nhiều ; vìngười ta cho rằng, hoàng kỳ có tác dụng kích thích các trung tâm miễn dịch của cơthể. Tất cả những nghiên cứu trên , một mặt là ứng dụng sự điều tiết miễn dịchcủa thuốc phù chính - trừ tà; mặt khác là nghiên cứu dược lý học và miễn dịch đểphát hiện chuyển hoá limpho bào trên thực nghiệm, thông qua phương pháp kiểmtra trắc nghiệm. Y học Cổ truyền đã nghiên cứu 4 phương thuốc bổ: Bổ khí: “tứ quân tử thang”. Bổ huyết: “tứ vật thang”. Bổ âm: “lục vị địa hoàng hoàn”. Bổ dương: “sâm phụ thang”. Người ta đã chứng minh và kết luận một số bài thuốc trên có khả năng xúctiến chuyển hóa limpho bào, kích thích phản ứng miễn dịch tế bào và hình thànhkháng thể. Thực tiễn lâm sàng đã chứng minh các loại bệnh thuộc hư chứng , dù ở cácmức độ khác nhau , đều có suy giảm chức năng miễn dịch rõ rệt. Vì vậy, khi dùngcác phương thuốc phù chính để bổ dưỡng đã thu được hiệu qủa nhất định. 2.3.Tác dụng điều tiết miễn dịch của thuốc trừ tà: Theo Y học cổ truyền: Tà thực lấy trừ tà là chủ để điều trị, tức là khu trừbệnh tà, khôi phục lại sự cân bằng của cơ thể mà đạt hiệu qủa điều trị. Trongnhững năm gần đây, những công trình nghiên cứu đã phát hiện nhiều loại thuốctrừ tà có khả năng điều chỉnh chức năng miễn dịch của cơ thể. Thuốc trừ tà thường dùng là các nhóm thuốc: Hoạt huyết - hóa ứ; thanhnhiệt - giải độc ; thuốc trừ thấp. Các nghiên cứu cho thấy, đại bộ phận các thuốc hoạt huyết - hóa ứ có tácdụng ức chế phản ứng miễn dịch bệnh lý của cơ thể. Đối với một số bệnh tự thânmiễn dịch và phản ứng biến thái thì có hiệu qủa rất tốt. Một số tư liệu đã chứngminh một số thuốc hoạt huyết- hóa ứ có tác dụng tăng cường công năng miễn dịchcơ thể. Những năm trước đây người ta chỉ chú ý đến tính kháng khuẩn, kháng siêuvi khuẩn của thuốc thanh nhiệt - giải độc, thì ngày nay người ta đã phát hiện ranhiều loại thuốc thanh nhiệt - giải độc có tác dụng tăng cường công năng miễndịch của cơ thể. Tuy nhiên, cũng có một số thuốc thanh nhiệt - giải độc lại có tácdụng ức chế miễn dịch. Ngoài ra nhiều loại thuốc sơ phong - trừ thấp có tác dụngtiêu viêm thoái mẫn. 2.3.1. Tác dụng ức chế miễn dịch của thuốc trừ tà: Trong những năm gần đây, bằng kết hợp Trung - Tây y, các nghiên cứu ứngdụng một số thuốc trừ tà để điều trị bệnh tự thân miễn dịch và bệnh biến thái phảnứng tính trạng thái quá mẫn cảm gây phản ứng quá mẫn đã thu được kết qủa tốt. Y học hiện đại cho rằng: sở dĩ bệnh tự thân miễn dịch và phản ứng biếnthái tính bệnh tật là do kích thích của kháng nguyên đã phát sinh phản ứng miễndịch quá mẫn, gây nên một ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: