Danh mục

ý nghĩa bức phù điêu cá chép hóa rồng trong Văn Miếu Quốc Tử Giám

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 100.33 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo tài liệu ý nghĩa bức phù điêu cá chép hóa rồng trong văn miếu quốc tử giám, văn hoá - nghệ thuật, điêu khắc - hội họa phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ý nghĩa bức phù điêu cá chép hóa rồng trong Văn Miếu Quốc Tử Giámý nghĩa bức phù điêu cá chép hóa rồng trong Văn Miếu Quốc Tử GiámCàng gần đến năm 2010, Văn Miếu - Quốc Tử Giám như càng hồi hộp đợi khoảnh khắcđăng quang trở thành Di sản phi vật thể của thế giới vào đúng thời điểm 1000 năm ThăngLong - Hà Nội. Văn Miếu - Quốc Tử Giám liên quan đến Khổng Tử và Nho học, nhưngtrên hết nó trở thành biểu tượng của Giáo dục, biểu tượng của Tri thức. Hệ thống bia đềdanh tiến sỹ thời Lê ở đây đang được nhìn nhận là hệ thống di sản tư liệu thế giới. Hệthống đồ án trang trí trên trụ biểu và tam quan Văn Miếu đã thể hiện rõ những ý nghĩacánh cổng của ngôi đền Tri Thức.Phía trái mặt trước của tam quan Văn Miếu có đắp bức phù điêu cá hóa rồng. Đây vốn làsự tích dân gian đã được Nho học hóa để trở thành một biểu tượng cho việc các nho sinhđỗ đạt đăng quang. Dân gian có câu ca: “Mồng bốn cá đi ăn thề - Mồng tám cá về cá vượt Vũ Môn”. Sách xưa ghi rằng Vũ Môn là thác nước tại núi Giăng Màn ở huyện Hương Sơn Hà Tĩnh. Sự tích loài cá kéo nhau về tụ hội thi tài thác Vũ Môn để hóa thành rồngcũng có ở Trung Quốc. Đồ án Cá vượt Vũ môn cũng rất phổ biến ở Trung Hoa mang màu sắc của mỹ thuật dân gian. Hình cá hóa rồng, cá vượt Vũ môn xuất hiện trong mỹ thuật người Việt đã thấy từ thời Trần. Đặc biệt sang đến thời Lê, trên thành bậc cửa đàn Nam Giao (Thăng Long) đã xuất hiện hình ảnh cá hóa rồng. Như vậy, đồ án trang trí này đã mang tính cung đình và chính thống.Hoạt cảnh cá hóa rồng là hoạt cảnh náo nhiệt, vui tươi trong mỹ thuật cổ truyền. Bức phùđiêu cá hóa rồng ở Văn Miếu có thêm hình rồng đang phun nước xuống hạ giới. Đâycũng là câu chuyện rất dân gian được liên tưởng đến các kỳ thi của triều đình. Chuyện kểrằng Vũ Môn cao quá, cá không tài nào nhảy qua được. Cảm động trước ý chí vươn lêncủa cá, rồng từ trên thiên giới hiện ra giáng vũ xuống cho nước dâng cao giúp cá vượt VũMôn. Kẻ sỹ chốn lều tranh ngõ hẻm, ngày đêm đèn sách chính là đang khổ luyện để vượtVũ Môn. Nhà vua khuyến khích đạo học, giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sỹ thì khác nàorồng ban mưa xuống hạ giới để cá có thể hóa được rồng. Cổng tam quan theo quy địnhtrước đây, chỉ kẻ sỹ khi đã hiển đạt mới được bước qua cửa này. Mỗi lần ngang qua đây,khi nhìn thấy tấm phù điêu lòng thêm phấn chấn và cảm kích trước thái độ trọng dụng kẻsỹ, nương đỡ người tài của hoàng triều. Trên bức chạm ở đền vua Đinh ( Hoa Lư -NinhBình, khắc năm Thành Thái thứ 10 -1898) cũng có bức chạm giống hệt bức phù điêu Cáhóa rồng ở Văn Miếu Hà Nội. Ngoại trừ một số chi tiết khác biệt nhỏ như ở Văn Miếu(Hà Nội), có ba con cá, hai con trong đó đã mọc cánh, còn ở đền vua Đinh chỉ có hai conđều đã mọc cánh. Con rồng ở đền vua Đinh là rồng năm móng còn rồng ở Văn Miếu chỉcó bốn móng (có thể sang đến đời Nguyễn, kinh đô chuyển vào Huế nên ta không cònđược thấy những con rồng năm móng biểu hiện cho hoàng triều ở Hà Nội nữa). ở hai bứccá hóa rồng này đều khắc họa hình ảnh rồng uốn lượn trong mây rồi sà xuống nghênhđón cá. Thậm chí ở bức chạm đền vua Đinh rồng còn phun nước để cá vượt qua Vũ Môn.Thực ra ngay trên trụ biểu cũng đã đắp hình rồng phun nước cho cá vượt Vũ môn, nhưngvì trên cao nên cũng ít người chú ý. Hơn nữa hiện nay các trụ biểu quét màu ghi xám củanước xi măng trông xa chỉ thấy đen xì một cục. Với cách tô màu ghi xám như đang làmphổ biến hiện nay với hết thảy các tam quan, nghi môn thì sẽ làm hỏng đi tinh thần và ýnghĩa của bức phù điêu này. Một điều nhỏ nữa cũng xin được trao đổi là không nên gọibức này là “long ngư tụ hội” như trong cuốn sách Văn Miếu - Quốc tử giám Thăng Long- Hà Nội của hai tác giả Nguyễn Quang Lộc và Phạm Thúy Hằng (trong tiếng Hán thànhngữ long ngư tạp giao có ý cái xấu và cái tốt lẫn lộn, cũng gần với câu cá mè một lứa củangười Việt)Trên cột trụ có lời ghi rằng:Cương thường đống cán tồn thiên địaĐạo đức cung tường tự cổ kim(Rường cột cương thường tồn tại cùng trời đấtĐạo đức trường học có từ xưa đến nay)Ngoại trừ tích Cá vượt Vũ Môn, liên quan đến giáo dục và Nho học, trên trụ biểu còn đắphình Kỳ Lân dạy con ( còn gọi là Kỳ lân giáo tử), Phượng hoàng dạy con. Nghệ thuật vữađắp rất mực khéo léo trong việc mô tả các động tác vờn nhảy của cha con kỳ lân, baylượn của phượng hoàng. Nhưng cái khéo léo tài tình của hình khối còn phải nhờ đến màusắc trang điểm thêm. Đặc biệt của nghệ thuật truyền thống Bắc Bộ kể từ thời Lê - Mạc trởđi ngày càng mang tính Ba-rốc rất náo hoạt, rực rỡ. Nhìn những trụ biểu đắp hình bốncon phượng quét vôi màu sáng dưới nắng như những bông hoa lấp lánh. Cách xử lý màusắc trên Văn Miếu sau trùng tu hiện nay cố tạo ra vẻ thời gian cho di tích. Cùng với bứctường gạch đỏ, vẻ rêu phong tự nhiên của chất liệu vôi nề truyền thống tạo nên sự ấm ấp,gần gũi với lòng người, hài hòa hơn. Cách làm giả đá hiện nay đang thịnh hành là đingược lại với nguyên tắc trùng tu được thể hiện trong luật Di sản, hơn thế, nó đang ...

Tài liệu được xem nhiều: