Danh mục

Yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nghề nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du, tỉnh Kiên Giang

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.78 MB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết này nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nghề nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du, tỉnh Kiên Giang thông qua việc sử dụng hàm sản xuất Cobb - Douglas để xây dựng mô hình nhằm lượng hóa mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nghiên cứu tới năng suất nuôi của các hộ nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du. Kết quả phân tích cho thấy mật độ thả giống, chi phí thức ăn, chi phí lao động, tỉ lệ sống, khoảng cách đặt lồng nuôi, kinh nghiệm và rủi ro là những yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nuôi của hộ, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5% và 10%. Trong khi đó, thời gian nuôi, vốn đầu tư, tập huấn, đối tượng nuôi và tiếp cận tín dụng không ảnh hưởng tới năng suất nuôi.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nghề nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du, tỉnh Kiên Giang Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NĂNG SUẤT NGHỀ NUÔI CÁ LỒNG BÈ TẠI VÙNG BIỂN NAM DU, TỈNH KIÊN GIANG FACTORS AFFECT THE PRODUCTIVITY OF CAGE FISH FARMING IN THE NAM DU COASTAL, KIEN GIANG PROVINCE Ong Nhất Oanh1, Phạm Hồng Mạnh2 Ngày nhận bài: 24/10/2012; Ngày phản biện thông qua: 20/12/2012; Ngày duyệt đăng: 15/5/2013 TÓM TẮT Bài viết này nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nghề nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du, tỉnh Kiên Giang thông qua việc sử dụng hàm sản xuất Cobb - Douglas để xây dựng mô hình nhằm lượng hóa mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nghiên cứu tới năng suất nuôi của các hộ nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du. Kết quả phân tích cho thấy mật độ thả giống, chi phí thức ăn, chi phí lao động, tỉ lệ sống, khoảng cách đặt lồng nuôi, kinh nghiệm và rủi ro là những yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nuôi của hộ, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5% và 10%. Trong khi đó, thời gian nuôi, vốn đầu tư, tập huấn, đối tượng nuôi và tiếp cận tín dụng không ảnh hưởng tới năng suất nuôi. Từ khóa: hiệu quả nghề nuôi, nghề nuôi cá biển, hàm sản xuất ABSTRACT This study aims to analyze the factors affecting productivity fish farming in sea cages Nam Du, Kien Giang through the use of production function Cobb-Douglas to build a model to quantify the impact of these factors to study yield of cage fish farmers in the Nam Du. Analysis results showed that stocking density, feed costs, labor costs, survival rate, distance put cages, experiences and risk factors significantly affect the yield of the household and statistical significance at 1%, 5% and 10%. Meanwhile, the culture period, investment capital, training, objects and access to credit does not significantly affect the yield. On this basis, the study also proposes a number of policies and measures to improve the efficiency of fish farming cages in Nam Du, Kien Giang. Keywords: efficient farming, fish farming, production function I. ĐẶT VẤN ĐỀ Kiên Giang là tỉnh, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long với bờ biển dài trên 200 km, Kiên Giang có tiềm năng rất phong phú để phát triển kinh tế biển, trong đó vùng ven bờ có độ sâu 20 - 50m và có hơn 100 đảo lớn nhỏ là tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển tại Đồng bằng Sông Cửu Long [8]. Nghề nuôi cá lồng bè trên biển ở Kiên Giang gần đây phát triển nhanh, đặc biệt là ở đảo Hòn Mấu, Hòn Ngang (xã Nam Du), Hòn Củ Tron (xã An Sơn), Hòn Tre (xã Hòn Tre) huyện Kiên Hải; quần đảo Hải Tặc thuộc xã Tiên Hải, thị xã Hà Tiên hay quần đảo Bà Lụa, thuộc xã Sơn Hải, huyện 1 2 Kiên Lương... Theo Chi cục Nuôi trồng thủy sản Kiên Giang [2] trong năm 2005, toàn tỉnh chỉ có 131 lồng bè trên biển nuôi cá mú, cá bớp, với sản lượng khoảng 90 tấn/năm, thì đến năm 2008, số lồng bè nuôi cá đã tăng lên 546 lồng, với sản lượng 693 tấn/năm và hiện nay lên đến 925 lồng, sản lượng hơn 1.200 tấn/năm. Chỉ tính trong 5 năm (2005 - 2009), số lồng bè nuôi cá trên biển ở Kiên Giang đã tăng hơn 7 lần và sản lượng thủy sản thu hoạch tăng hơn 13,3 lần. Kết quả này chứng tỏ, nghề nuôi cá lồng bè trên biển đang phát triển đúng hướng [2]. Kiên Hải là một trong những huyện có hoạt động nuôi cá lồng bè trên biển phát triển mạnh của Ong Nhất Oanh: Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh Kiên Giang TS. Phạm Hồng Mạnh: Khoa Kinh Tế - Trường Đại học Nha Trang TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 135 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản tỉnh Kiên Giang [3]. Tuy nhiên, nuôi cá lồng bè ở khu vực này đã và đang gây ra nhiều vấn đề cho các hộ nuôi tại khu vực này, như: hoạt động nuôi còn mang tính tự phát, các yêu cầu về kỹ thuật nuôi chưa được thông tin đầy đủ, số lồng bè thủy sản tăng quá nhanh dẫn đến chất lượng nguồn nước suy giảm,... Điều này đã dẫn đến năng suất nuôi của các hộ tại khu vực này bị giảm sút [6]. Việc đánh giá năng suất nghề nuôi cũng như xác định các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất của nghề nuôi cá lồng bè trên địa bàn là rất cần thiết nhằm xác định những vấn đề cần quan tâm nhằm cải thiện năng suất và hiệu quả nghề nuôi tại khu cực này góp phần thúc đẩy hoạt động nghề nuôi cá lồng bè phát triển ổn định và lâu dài. II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lý thuyết Nuôi trồng thuỷ sản là quá trình hoạt động liên quan đến các vấn đề sinh học. Quá trình sản xuất liên quan đến việc sử dụng các nguồn lợi ở nước, lao động, và quản lý để tạo ra các sản phẩm thuỷ sản đáp ứng cho nhu cầu của con người và xã hội. Trong quá trình sản xuất, các nhà khoa học [1], [4], [6], [7] thường quan tâm đến sản lượng khi các yếu tố đầu vào như thức ăn, con giống, quản lý chất lượng nước,… Trong khi đó, các nhà kinh tế quan tâm đến cả hai sản lượng và năng suất. Hàm số sản xuất là mối quan hệ kỹ thuật giữa các yếu tố đầu vào và sản phẩm làm ra tại một thời điểm nhất định với một công nghệ nhất định. Sản phẩm nuôi trồng thủy sản thường đa dạng và là kết quả của hàng loạt các yếu tố đầu vào. Chất lượng và năng suất của sản phẩm làm ra được quy định bởi việc sử dụng mỗi yếu tố đầu vào cũng như mối quan hệ tương tác giữa chúng. Hàm số sản xuất thủy sản được biểu diễn dưới dạng [3]: Y = f(X1, X2, X3, ..., Xn) Trong đó: Y - Sản lượng thủy sản X1 - Lượng thức ăn X2 - Kích cỡ thả X3 - Tỷ lệ sống X4 - Mật độ thả Xn - Các biến số liên quan đến tăng trưởng của cá 2. Mô hình nghiên cứu Xuất phát từ cơ sở lý thuyết [3] và tổng quan các công trình nghiên cứu thực nghiệm liên quan [1], [4]. Mô hình nghiên cứu đề xuất được đề nghị như sau: Để thấy được sự ảnh hưởng của các nhân tố 136 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Số 2/2013 đến năng suất nuôi cá lồng bè, nghiên cứu đã sử dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas để ước lượng. Hàm sản xuất Cobb – Douglas có dạng: W = A. MATDOα1 .THOIGIα2 .TH_ANα3 .VON_DTα4 .LADOα5 .TILSOα6 .KCAHα7 .KNGα8 TAPHUANα9 .RUIROα10 .TDUNGα11 .DTGNUIα12 Các biến trong mô hình bao gồm: Trong đó: W: năng suất cá lồng bè nuôi t ...

Tài liệu được xem nhiều: