Thư từ là phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết, xuất hiện khá sớm,
đặc biệt đối với các nền văn minh cổ đại. Dấu vết sớm nhất của hình thức thư
được tìm thấy là giấy ghi nhận có nợ bằng tiếng Ackat (Mêdôpôtami, thuộc
miền Lưỡng Hà - Irắc ngày nay) khắc trên thỏi đất sét, khoảng vào thế kỷ
XIX tr. CN.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Yếu tố nghệ thuật của thư từ và thư từ trong tác phẩm văn học
Yếu tố nghệ thuật của thư từ và thư từ trong
tác phẩm văn học
1. Thư từ là phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết, xuất hiện khá sớm,
đặc biệt đối với các nền văn minh cổ đại. Dấu vết sớm nhất của hình thức thư
được tìm thấy là giấy ghi nhận có nợ bằng tiếng Ackat (Mêdôpôtami, thuộc
miền Lưỡng Hà - Irắc ngày nay) khắc trên thỏi đất sét, khoảng vào thế kỷ
XIX tr. CN. Thư từ của các pharaông Ai Cập được viết trên giấy cói (-XIV-
XI); người Hi Lạp xưa định cư là chủ yếu và chuộng trao đổi bằng lời nói,
giao tiếp thư từ chủ yếu thể hiện thông qua các chiến binh, những người đứng
đầu nhà nước và các quan viên; người La Mã thể hiện mong muốn gìn giữ,
duy trì mối liên hệ với người vắng mặt qua việc trao đổi thư từ, do đó thư gia
đình tương đối phổ biến... Bắt đầu từ những dạng sơ khai ban đầu đó, thư từ
trở thành phương tiện liên lạc, và là hình thức giao tiếp tinh thần của con
người.
Giá trị thực tiễn của thư từ là trao đổi thông tin, bao gồm cả văn bản hành
chính và thư từ cá nhân. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập tới
thư từ cá nhân với những giá trị nghệ thuật vốn có như là đặc trưng của thể
loại. Với thư từ, ngôn ngữ viết được dung nạp vào đời sống giao tiếp nói năng
hàng ngày. Ngược lại cũng có thể nói, trong tất cả các thể loại viết, thư từ gần
với giao tiếp thường ngày nhất. Nó có tính xác thực rất cao và đồng thời thể
hiện đời sống tình cảm riêng tư rõ rệt. Thực tế xác thực mà tiểu thuyết, thơ
không có khả năng tạo ra, lại có ở trong thư từ. Các bức thư chiếu sáng mười,
hai mươi, bốn mươi năm cuộc đời một con người, đó thực sự là lịch sử của
tâm hồn: đó là những thứ không thể phủ nhận, là tư liệu duy nhất của con
người (G. Lanson, 1). Đối tượng phản ánh của thư từ là cái hiện tại, cái hàng
ngày, và động lực của nó là cảm xúc. Thư là để thông tin cho nhau, nhưng thư
cũng là để giãi bày. Nhật ký viết cho riêng mình, còn thư phải hướng đối
1
tượng. Những bức thư hay được viết trong những thời điểm cảm xúc thăng
hoa, và niềm say mê trở thành sự thôi thúc không thể kiềm chế, phải được trải
ra bằng lời và thực hiện đối thoại với người vắng mặt trên trang giấy, với
niềm hi vọng và tin tưởng rằng nó sẽ đến tay người nhận và được thông tỏ nỗi
niềm. Điều này rất đúng với trường hợp của Bà de Sévigné (1626 - 1696),
người đã từng viết 1500 bức thư từ năm 1671 đến năm 1696. Đó là những bức
thư đầy xúc động nói lên niềm thương nhớ của một người mẹ đối với con gái
trong rất nhiều năm chờ đợi. Những bức thư đã từng chu chuyển qua hơn hai
trăm nơi chốn theo bước chân của hai vợ chồng bá tước De Grignan ghi lại
những thăng trầm của đời sống cũng như tình cảm trong hai mươi lăm năm xa
cách. Bà de Sévingé đã thực sự sáng tạo ra phong cách của riêng mình, bởi bà
viết một cách tự nhiên với những tình cảm tự nhiên, không gò bó theo phép tu
từ (trường học không dạy phép tu từ cho nữ giới, bản thân bà cũng không
được tham khảo những cuốn sách có tính lý luận), và lối viết không theo một
trình tự nhận thức như M. Proust (1871 - 1922) đã nói. Rất nhiều những bức
thư của bà đã làm say mê độc giả và người ta chuyền nhau chép lại. Người
phụ nữ này biết rằng một trong số những bức thư của mình sẽ có lúc trở thành
thư ngỏ với độc giả nhưng chắc chắn bà chưa bao giờ hình dung những bức
thư đó sẽ được xuất bản. Bà đã viết những bức thư bình dị nhất và chân thành
nhất, như bao lá thư thông thường của những người mẹ luôn lo lắng cho đứa
con đang ở xa mình. Thư của bà rất gần với đời sống tình cảm vốn có của con
người.
Chúng tôi muốn nói thêm rằng, thư từ không chỉ làm sáng tỏ cuộc đời
một con người, mà còn có thể chứng thực cho lịch sử một dân tộc ở một thời
điểm nào đó. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, hàng ngàn,
hàng triệu bức thư đã có mặt trong ba lô của người chiến sĩ vượt đường
Trường Sơn vào Nam ra Bắc. Năm 1963 - 1964, Nhà xuất bản Văn học đã
sưu tập và xuất bản gần 80 bức thư tiêu biểu của đồng bào miền Nam gửi ra
2
Bắc, trong hai tập sách Từ tuyến đầu Tổ quốc. Từ những lá thư của các cá
nhân gửi cho người thân, bạn bè mình ngoài Bắc, tập hợp các bức thư dưới
dạng hồi ký đã là bằng chứng xác thực nhất về tội ác tày trời của bọn Mỹ
Ngụy, cũng như sự ghi nhận về tinh thần anh dũng kiên cường của đồng bào
miền Nam trong đau thương đã đứng lên đấu tranh với bè lũ cướp nước.
Chân thực trong phản ánh là đặc tính nổi bật của thư từ, nhưng là sản
phẩm của sáng tạo, thư từ cũng mang cấu trúc tưởng tượng - kể. Bắt đầu từ
khi người viết đặt bút viết một bức thư, anh ta đã bắt đầu bịa chuyện, xây
dựng nhân vật - một cái tôi với một cuộc đời, một kinh nghiệm, hình dung
và thiết lập mối quan hệ với nhân vật mà anh ta giao tiếp. Thư từ như chiếc
cầu nối giữa hai đối tượng là người gửi - người nhận. Tuy nhiên, ở đây, vấn
đề người gửi - nhiều nhận không đơn giản. Một mặt, được viết ở ngôi ...