Danh mục

ZEFFIX (Kỳ 3)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 172.99 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Không phải tất cả bệnh nhân bị bệnh gan tiến triển đều có lợi trong việc điều trị với Zeffix. Trong một vài trường hợp bệnh tiến triển trước khi điều trị, bệnh gan tiến triển không hồi phục đến tình trạng cuối cùng hay các bệnh mắc đồng thời khác ngăn chặn không cho cải thiện trên lâm sàng. Các nhiễm virus đồng thời : Điều trị lamivudine ở bệnh nhân ở bệnh nhân nhiễm đồng thời HIV và HBV đã được nghiên cứu trong các thử nghiệm điều trị HIV. Các thử nghiệm này đã nghiên cứu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ZEFFIX (Kỳ 3) ZEFFIX (Kỳ 3) Không phải tất cả bệnh nhân bị bệnh gan tiến triển đều có lợi trong việcđiều trị với Zeffix. Trong một vài trường hợp bệnh tiến triển trước khi điều trị,bệnh gan tiến triển không hồi phục đến tình trạng cuối cùng hay các bệnh mắcđồng thời khác ngăn chặn không cho cải thiện trên lâm sàng. Các nhiễm virus đồng thời : Điều trị lamivudine ở bệnh nhân ở bệnh nhânnhiễm đồng thời HIV và HBV đã được nghiên cứu trong các thử nghiệm điều trịHIV. Các thử nghiệm này đã nghiên cứu ảnh hưởng của Epivir (lamivudine 150mg hai lần mỗi ngày cho điều trị HIV) hơn là của Zeffix (lamivudine 100 mg mỗingày một lần cho điều trị viêm gan B). Một nhóm bệnh nhân nhiễm đồng thời HIV/HBV đã dùng Epivir hai lầnmỗi ngày (97 bệnh nhân) hay placebo (25 bệnh nhân) trong 52 tuần. Một vài bệnhnhân trong nhóm điều trị Epivir cũng dùng loviride, một chất ức chế reversetranscriptase non-nucleotide ; tuy nhiên, các số liệu từ tất cả các bệnh nhân dùngEpivir đều đã được tồn trữ để so sánh với placebo, do loviride không có hoạt tínhtrên HBV in vitro. Vào cuối giai đoạn điều trị 52 tuần, các bệnh nhân được điều trị với Epivirgiảm 2,7 log trên nồng độ HBV DNA huyết thanh trung bình, so với không thayđổi gì ở nhóm dùng placebo. Nồng độ ALT huyết thanh trung bình có cải thiện từ74,7 đến 54,7 đơn vị/l trong nhóm Epivir, và có rất ít thay đổi trong nhóm placebo(68,2 - 74,9 đơn vị/l). Thêm vào đó, 22% bệnh nhân trong nhóm Epivir và khôngcó người nào trong nhóm dùng placebo không còn phát hiện được HBeAg. Các kết quả này cũng tương tự như kết quả được báo cáo ở nơi khác và gợiý rằng hoạt tính kháng HBV của lamivudine ở bệnh nhân nhiễm đồng thời HIVcũng tương tự như ở bệnh nhân chỉ nhiễm HBV. Tuy nhiên, cần có nghiên cứu sâuhơn để xác định xem việc giảm virus có dẫn đến sự cải thiện bệnh gan do HBVhay không. Chưa xác định được hiệu quả của Zeffix trong điều trị bệnh nhân viêm gansiêu vi B mãn tính nhiễm đồng thời HCV hay HDV. DƯỢC ĐỘNG HỌC Trong các tế bào 2.2.15, Zeffix triphosphate có thời gian bán hủy là 17 - 19giờ, lâu hơn khoảng 3 giờ so với thời gian bán hủy trong huyết thanh của Zeffix tựdo ở người. Sự hiện diện lâu trong tế bào này của Zeffix là do quá trìnhphosphoryl hóa ngăn chận sự lan tỏa tự do của thuốc ra ngoài tế bào, và có thể cóliên quan đến tác dụng kháng virus mạnh tương tự thấy được ở người sau liều mỗingày một lần so với mỗi ngày hai lần. Zeffix được hấp thu tốt và có độ khả dụng sinh học tuyệt đối cho tất cả cácdạng uống khoảng 80 - 85%. Điều chỉnh liều chỉ cần thiết cho bệnh nhi và nhữngbệnh nhân bị suy thận trung bình đến nặng. Độc tính : Zeffix được dung nạp tốt trong tất cả các nhóm bệnh nhân được nghiêncứu. Trong thử nghiệm lâm sàng pha II và III, không có sự gia tăng tỷ lệ hay thayđổi về bản chất các tác dụng ngoại ý do gia tăng liều lượng hay thời gian điều trị.Trong các thử nghiệm lâm sàng, rất hiếm khi phải ngưng điều trị Zeffix do tácdụng ngoại ý. Tính an toàn tiền lâm sàng : Số liệu tiền lâm sàng thu được từ một dãy các test in vitro và trên thú đãxác định tính an toàn tốt của Zeffix trước khi sử dụng trên người. Zeffix đượcdung nạp tốt trong các nghiên cứu độc tính cấp và độc tính với liều lặp lại ở loàigặm nhấm, chó và khỉ đuôi sóc, ở nồng độ trong huyết tương cao hơn đáng kể sovới các liều được sử dụng sau đó trên lâm sàng. Trong các nghiên cứu ở thú vậtnày, các tác dụng có liên quan đến điều trị được giới hạn ở những thay đổi vềhuyết học (giảm số lượng hồng cầu và bạch cầu trung tính), hóa học lâm sàng vàphân tích nước tiểu. Zeffix không cho thấy bằng chứng kích ứng mắt và da, hay khả năng nhạycảm do tiếp xúc trong các khảo sát về tính an toàn ở thú vật. Hơn nữa, với các liềucao hơn nhiều so với liều cần thiết cho hoạt tính kháng virus trên lâm sàng, Zeffixkhông ảnh hưởng đáng kể đến hệ thống thần kinh trung ương hay thần kinh tựđộng cũng như hệ tim mạch hay hô hấp ở chuột cống, mèo hoặc chó. Tính an toàn trên lâm sàng : Trong các nghiên cứu pha I, tính an toàn và dung nạp cấp tính đã đượckhảo sát sau khi dùng thuốc theo đường uống và tiêm tĩnh mạch liều đơn Zeffix(đến 4 mg/kg) hay liều lặp lại (đến 8 mg/kg/ngày). Chỉ quan sát được các tác dụng ngoại ý nhẹ như nhức đầu và buồn nôn, vàkhó xác định được mối liên quan nhân quả đối với thuốc do không có số liệu trênplacebo. Không có tác dụng huyết động học nào có ý nghĩa trên lâm sàng (huyết áp,nhịp tim), thay đổi trên điện tâm đồ (EKG), hay thay đổi trên các số liệu về tính antoàn trong phòng thí nghiệm. Các liều đơn Zeffix đã được dung nạp rất tốt ởnhững bệnh nhân suy gan hay suy thận. ...

Tài liệu được xem nhiều: