Thông tin tài liệu:
Trong 5 năm qua các hoạt động phá hoại trong lĩnh vực này tăng lên đột biến và đa dạng hơn dưới hình thức tấn công hệ thống máy chủ, đánh cắp dữ liệu, tiền bạc và các thông tin cá nhân.
Các hành động phá hoại này xuất hiện dưới hàng loạt những cái tên như "zombies" , "worms", "botnets", "Trojan horses" hay "money mules" những tội phạm có thể tiến hành phá hoại, đánh cắp thông tin cá nhân, nhập hội và tổ chức một liên minh để tạo cuộc "tổng tấn công", thậm chí còn đánh cắp các...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Zombies và botnets - đội quân tin tặc hùng hậu
Zombies và botnets - đội quân tin tặc hùng hậu
Trong 5 năm qua các hoạt động phá hoại trong lĩnh vực này tăng lên đột
biến và đa dạng hơn dưới hình thức tấn công hệ thống máy chủ, đánh cắp dữ
liệu, tiền bạc và các thông tin cá nhân.
Các hành động phá hoại này xuất hiện dưới hàng loạt những cái tên như
zombies , worms, botnets, Trojan horses hay money mules những
tội phạm có thể tiến hành phá hoại, đánh cắp thông tin cá nhân, nhập hội và
tổ chức một liên minh để tạo cuộc tổng tấn công, thậm chí còn đánh cắp
các dữ liệu để đòi tiền chuộc.
OECD cho biết: Một bonet là một tập hợp các máy tính bị nhiễm malware
còn được gọi là zombies hoặc bots. Bonet này có thể được dùng để điều
khiển việc phá hoại các hệ thống máy tính khác.
OECD cảnh báo rằng các dạng thức hack đã biến đổi thành việc tấn công các
máy tính cá nhân sang thành vũ khí đầy mãnh lực trong tay của những kẻ tội
phạm nghiêm trọng. Ngày nay malware có ảnh hưởng bất lợi đến bất cứ
người dùng Internet nào, từ các doanh nghiệp đến các chính phủ cho đến
người dùng.
Năm 1986, virus độc hại đầu tiên có tên là brain đã xuất hiện, đến năm
1988 là một worm (sâu máy tính) tên là Morris đã ăn tới hơn 6000 máy
tính. Sự bùng nổ dịch vụ thư điện tử vào những năm 1990 đã khiến cho dịch
sâu Melissa hay MyDoom lan tràn.
Năm 2006 đã xuất hiện virus Trojan horse. Trojan horse đã tấn công các file
trong thư mục My document của người dùng Microsoft Windows, các file
này đã bị mã hoá bởi vậy người dùng không thể truy cập được nếu không trả
cho chúng một khoản tiền chuộc.
Để phòng tránh và khống chế những cuộc tấn công như vậy người dùng phải
download các phần mềm từ Internet hoặc mua các phần mềm của các nhà
cung cấp. Các hợp đồng đặt mua những phiên bản mới có giá thấp nhất là
800 USD.
Hiệp hội Ngân hàng Anh ước tính họ phải tiêu tốn 12,2 triệu bảng cho
malware vào năm 2004, nhưng, chi phí này đã lên đến 33,5 triệu vào năm
2006.
Một các phòng bị tốt nhất đối với người dùng đó là cài đặt tường tửa và phần
mềm chống virus. Khi có biểu hiện bị tấn công người dùng nên có biện pháp
phản công ngay tức khắc.
Báo cáo của OECD còn đưa ra ước tính rằng hiện nay 59 triệu máy tính của
người dùng tại Mỹ bị nhiễm spyware hoặc một dạng thức khác của malware.
Triệu chứng của các máy nhiễm Dashfer là không sử dụng được một số
chương trình Antivirus, một vài tiện ích của Windows, hiện các popup
quảng cáo gây khó chịu. Vào Yahoo Messenger một lúc thì bị thông báo
Send/Dont Send và không sử dụng được, có thể bị sập toàn bộ mạng LAN…
Cũng theo VNCERT, không chỉ riêng chương trình chat YM mà một số
website tại VN cũng bị chèn đoạn mã độc này. Hiện tại, VNCERT đang tiếp
tục nghiên cứu đưa ra công cụ rà soát và hỗ trợ người dùng bóc gỡ mã độc,
và chưa có thống kê cụ thể về số lượng máy tính bị lây nhiễm virus.