Thông tin tài liệu:
Một nghiên cứu mới đã tìm ra: cứ 7 phụ nữ thì có 1 người phải chịu đựng chứng trầm cảm khi chuẩn bị mang thai, trong suốt thai kỳ và cả sau khi sinh. Theo báo cáo của Tạp chí tâm thần Hoa Kì phát hành vào tháng 10: “Hậu quả của sự trầm cảm có thể hủy hoại đi người mẹ, em bé và toàn bộ gia đình của cô ấy.” Bà Patricia Dietz - nhà nghiên cứu về dịch bệnh, ở bộ phận sức khỏe sinh sản của Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa dịch...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
15% phụ nữ phải đương đầu 15% phụ nữ phải đương đầu Một nghiên cứu mới đã tìm ra: cứ 7 phụ nữ thì có 1 người phải chịu đựng chứng trầm cảm khi chuẩn bị mang thai, trong suốt thai kỳ và cả sau khi sinh. Theo báo cáo của Tạp chí tâm thần Hoa Kì phát hành vào tháng10: “Hậu quả của sự trầm cảm có thể hủy hoại đi người mẹ,em bé và toàn bộ gia đình của cô ấy.”Bà Patricia Dietz - nhà nghiên cứu về dịch bệnh, ở bộ phậnsức khỏe sinh sản của Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừadịch bệnh Hoa Kì cho rằng: “Đa số những người phụ nữđược chẩn đoán bị trầm cảm trước, trong và sau khi mangthai đều có những biểu hiện như nhau.”“Có nhiều phụ nữ bắt đầu thai kỳ với chứng trầm cảm vàđiều này thực sự rất quan trọng để những người mẹ nàyphải chuẩn bị thật cẩn thận cho cuộc vượt cạn của mình.”Bà Dietz nói: ”Trong suốt quá trình chuẩn bị mang thai,trong suốt thai kì và sau sau khi sinh cần phải kiểm tra xemngười mẹ có bị chứng trầm cảm hay không.”Theo kết quả từ cuộc nghiên cứu, hậu quả của chứng trầmcảm sau khi sinh ảnh hưởng tới 400.000 phụ nữ ở Hoa Kì,một con số đáng kể. Nó có thể ức chế khả năng làm mẹ củangười phụ nữ, quan hệ của họ với chồng và những hoạtđộng hằng ngày.”Từ nghiên cứu được bảo trợ bởi tổ chức KaiserPermanente. Nhóm làm việc của bà Dietz đã thu thập dữliệu trong 4398 phụ nữ - những người sinh con từ năm1998 đến 2001. Họ thấy rằng: 8.7% những người phụ nữtrải qua chứng trầm cảm trong 9 tháng trước khi mang thai,6.9% trong suốt thai kỷ và 10.4% trong 9 tháng sau khisinh.15.4% những người phụ nữ bị trầm cảm ít nhất một thời kỳtrong những thời kì trên. Hầu hết 75% những người phụ nữbị trầm cảm sau khi sinh thì cũng chịu đựng chứng trầmcảm trước khi mang thai và hơn 50% phụ nữ bị trầm cảmtrước khi mang thai cũng bị trầm cảm trong suốt thời kìmang thai.Bà Dietz nói: ”Đối với nhiều phụ nữ, đó là một căn bệnhkinh niên.”Bà cho biết thêm: 93.4% phụ nữ được chuẩn đoán là bịtrầm cảm trước, trong và sau khi mang thai thì phải đi kiểmtra tại chuyên khoa thần kinh hoặc dùng những biện phápchống lại chứng trầm cảm.Những người ngiên cứu cho thấy: ”Trong số những ngườiphụ nữ bị trầm cảm có 75% dùng những biện pháp chốnglại chứng trầm cảm, trong đó 77% trước khi mang thai,67%trong thời kì mang thai, và 82% sau khi sinh.”Bà Dietz khuyên những phụ nữ nên thông báo những dấuhiệu của chứng trầm cảm cho bác sĩ biết.“Có một cách điều trị để thoát khỏi chứng trầm cảm. Cácbà mẹ được khuyến cáo phải phấn chấn, thoải mái khi cócon. Đôi khi rất khó để gạt bỏ sự trầm cảm nhưng bác sĩnên khuyên bệnh nhân nên cố gắng làm điều này.”Bác sĩ David L. Katz – Giám đốc Trung tâm nghiên cứuphòng bệnh của trường Đại học Yale cho biết: ”Chứngtrầm cảm rất phổ biến trước, sau khi cũng như trong suốtquá trình mang thai.”Ông nói: “Có 2 khả năng giải thích, đó là khó khăn từ sựthay đổi hoocmon khi mang thai đến sự điều chỉnh về tâmlí gây ra chứng trầm cảm, cũng như việc phải theo dõi đểxem trong khoản thời gian mang thai có xác định đượcchứng trầm cảm mà trước đây đã không chẩn đoán được.Dĩ nhiên, cả 2 yếu tố có thể cùng xuất hiện.”Có nhiều cơ hội để ngăn chặn chứng trầm cảm bởi thai kỳ.Bác sĩ Katz nói: ”Nếu chỉ đơn thuần mang thai là nguyênnhân trầm cảm trong phần lớn dân số thì cần thiết phải cósự bảo vệ hiệu quả hơn. Tìm ra nguyên nhân của chứngtrầm cảm là điều kiện tiên quyết để chữa trị nó.”Bà Dietz nghĩ rằng trước khi một phụ nữ bắt đầu sử dụngmột trong những biện pháp điều trị chứng trầm cảm, cô ấynên thảo luận với bác sĩ về những rủi ro và lợi ích củamình.Theo March of Dimes, người phụ nữ bị trầm cảm thườngcảm thấy buồn bã, rầu rĩ trong 2 tuần hoặc lâu hơn. Nhữngtriệu chứng khác của chứng trầm cảm bao gồm: Khó ngủ Ngủ quá nhiều Mất hứng thú Có cảm giác tội lỗi Mất sức Khó tập trung Thay đổi khẩu vị Hiếu động, kích động hoặc di chuyển chậm Suy nghĩ hoặc có ý đồ tự tử.