Chiến tranh đã qua, những vấn đề lớn, vấn đề của số đông, những vấn đề chung không còn được chú trọng. Các nghệ sỹ quay về khai thác những vấn đề cá nhân, những câu chuyện, những vui buồn, trải nghiệm có tính chất riêng tư. Đại hội lần thứ 6 của Đảng CSVN (18/12/1986) đã đưa ra một quyết định có tính chất lịch sử đối với vận mệnh đất nước, quyết định mở cửa, quyết định đổi mới. Từ chính trị, kinh tế, xã hội đến văn hóa nghệ thuật. Cụ thể là Nghị quyết 5...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
25 năm Mỹ thuật Việt Nam đổi mới25 năm Mỹ thuật Việt Nam đổi mớiChiến tranh đã qua, những vấn đề lớn, vấn đề của số đông, những vấn đề chungkhông còn được chú trọng. Các nghệ sỹ quay về khai thác những vấn đề cá nhân,những câu chuyện, những vui buồn, trải nghiệm có tính chất riêng tư.Đại hội lần thứ 6 của Đảng CSVN (18/12/1986) đ ã đưa ra một quyết định có tínhchất lịch sử đối với vận mệnh đất nước, quyết định mở cửa, quyết định đổi mới.Từ chính trị, kinh tế, xã hội đến văn hóa nghệ thuật.Cụ thể là Nghị quyết 5 của Bộ chính trị về văn hóa nghệ thuật. Kêu gọi nghệ sỹ tựcởi trói và tự do sáng tạo. Đó là nguyên nhân sâu xa tạo nên trào lưu Mỹ thuật đổimới, trào lưu thứ 3 của Mỹ thuật Việt Nam trong thế kỷ 20.Một trào lưu Mỹ thuật đặc biệt của một thời kỳ đặc biệt, khác hẳn với hai trào lưutrước. Trào lưu Mỹ thuật Đông Dương (1925-1954) và trào lưu Mỹ thuật Hiệnthực xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc (1954-1985). Nếu tính theo tuổi tác thì lớp hoạsỹ hiện nay là thế hệ thứ 5.Tính từ thế hệ đầu tiên của Mỹ thuật hiện đại Việt Nam là các hoạ sỹ tốt nghiệptrường Mỹ thuật Đông Dương, thế hệ thứ 2 là các hoạ sỹ học khoá Mỹ thuật khángchiến của hoạ sỹ Tô Ngọc Vân. Thế hệ thứ 3 là các hoạ sỹ thời chống Mỹ (ở miềnBắc). Tranh của Đào Hải PhongThế hệ thứ 4 là các hoạ sỹ thời đổi mới và vài năm lại đây có một lớp hoạ sỹ trẻchủ yếu là làm nghệ thuật mới, thế hệ thứ 5.Buộc phải nói rõ như vậy vì lịch sử và lịch sử m ỹ thuật không hoàn toàn trùng khít.Thế hệ, thời kỳ và trào lưu tuy đều chứa yếu tố thời gian nhưng chỉ mang tínhtương đối.Ví dụ bức sơn mài “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” của hoạ sỹ Nguyễn Sáng vềđề tài kháng chiến chống Pháp được sáng tác năm 1963. Hoặc hoạ sỹ Trần LưuHậu thuộc thế hệ thứ 2 nhưng lại nổi lên vào thời đổi mới.Và cũng không chỉ từ 1986 hội hoạ Việt Nam mới đổi mới, bộ tứ Nghiêm, Liên,Sáng, Phái và Trần Trung Tín đã làm được nhiều hơn thế ngay từ trước đó. Ngượclại thời đổi mới nhưng vẫn có rất nhiều hoạ sỹ không đổi mới lắm.Trào lưu Mỹ thuật hiện thực Xã hội chủ nghĩa ảnh hưởng nặng của trường pháihiện thực Xô Viết với lối tả chân khô khan, đơn điệu, cứng nhắc. Hội hoạ bị đồngnghĩa với dễ xem, dễ hiểu. Tranh của Đinh Ý NhiCoi trọng nội dung, đề tài hơn là hình thức biểu hiện và đương nhiên, giai đo ạn đóđất nước còn chiến tranh nên đề tài chiến đấu và sản xuất là hai đề tài chủ đạo.Từ đó có thể thấy sự khác biệt của Trào lưu Mỹ thuật Đổi Mới so với hai trào lưutrước đó chính là ở sự tôn trọng trở lại với hình thức biểu đạt chứ không phải ởphạm trù nội dung. Tôn trọng tự do sáng tạo, đề cao tính cá nhân, tôn trọng cáckhuynh hướng khác nhau, không hạn chế tìm tòi những phong cách mới.Chiến tranh đã qua, những vấn đề lớn, vấn đề của số đông, những vấn đề chungkhông còn được chú trọng. Các nghệ sỹ quay về khai thác những vấn đề cá nhân,những câu chuyện, những vui buồn, trải nghiệm có tính chất riêng tư.Họ hướng cái nhìn vào thế giới nội tâm, vào bên trong hơn là bên ngoài. Hoàntoàn có thể hiểu Trào lưu Mỹ thuật đổi mới tức là đổi mới hình thức.Từ những tên tuổi xuất hiện sớm của trào lưu Trần Lưu Hậu, Nguyễn Trung,Đặng Xuân Hòa, Nguyễn Quân, Đỗ Sơn, Trần Trọng Vũ, Thành Chương, NguyễnBảo Toàn, Phan Phương Đông, Đào Hải Phong, Trương Tân, Hồng Việt Dũng, LêQuảng Hà, Hoàng Phượng Vỹ đến những người cuối như Nguyễn Minh Thành, LêQuốc Việt, Bạch Đàn, Thắm Poong, Nguyễn Thị Châu Giang, Lý Trần Qu ỳnhGiang, Lê Thị Minh Tâm…Nhưng gì thì gì, nghệ thuật nói chung và hội họa nói riêng bao giờ cũng là vấn đềcủa cá nhân. Trào lưu nghệ thuật nào cũng được làm nên bởi những cá nhân vớinhững tác phẩm cụ thể.Cái riêng nhất, cái cốt lõi, cái làm nên phong cách nghệ thuật của hoạ sỹ Trần LưuHậu xuyên suốt mấy chục năm nay đó là bút pháp và m ầu của ông.Thế mạnh củaông là nét. Tất tật, hình là nét, bố cục, đậm nhạt cũng là nét, mảng cũng là nét(nhiều nét cộng lại). Tranh của Đỗ SơnÔng không phân biệt hình và nền. Tất cả đều là một nét, không tô đi dạm lại, mộtđi không trở lại, trắng trợn quyết liệt, dứt khoát, chắc khoẻ.Là một kiểu hiếm của Mỹ thuật Việt Nam. Tranh của Đỗ Sơn không có bệnh khônkhéo, yểu điệu, lãng mạn, đèm đẹp của hầu hết những người ở thành thị.Sơn cũng không có bệnh “tỉnh lẻ” vì Sơn là một người nhà quê ở tỉnh, một ngườiThổ Hà trong lòng Hà Nội, cái đẹp trong tranh của Đỗ Sơn là cái đẹp của gân guốc,thô nhám, hồn nhiên, mộc mạc. Từ hình, mầu đến bố cục, tất cả đều ào ạt, khỏekhoắn, mạnh mẽ, dứt khoát.Tất cả đều rực rỡ, chín mọng, hứng khởi, hoan lạc và đầy ắp vẻ đẹp của ban đầu.Thế mạnh của Đỗ Sơn là đề tài phụ nữ khỏa thân. Đó là những người đàn bà khỏathân, hoặc bán khỏa thân.Những người đàn bà trên bãi biển, cô gái đang tắm, những thiếu phụ mình trầnđang chải đầu, vấn tóc, đang thay quần áo… các thế đứng, nằm, ngồi, vạm vỡ,hưng phấn, tràn trề sinh lực và đầy m ỹ cảm của nhục cảm.Có cảm giác khi vẽ phụ nữ khỏa thân thì bút lực của ...