Danh mục

3M và bản lĩnh kinh doanh của người Mỹ

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 187.99 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thành lập tại Mỹ vào năm 1902, lúc đầu, 3M chỉ là một công ty chuyên về khai khoáng thuộc bang Minnesota,. Vậy nhưng, chỉ trong thời gian không lâu, 3M đã nhanh chóng đổi mới và không ngừng phát triển, từ một công ty khai khoáng trở thành tập đoàn đa công nghệ với lợi nhuận trên 2 tỷ USD trong tổng doanh thu 17,5 tỷ USD. Hiện 3M có khoảng 75.000 nhân viên trên 20 quốc gia. Chiến lược phát triển thị trường Để phát triển, kế hoạch của 3M là mua lại các đối thủ cạnh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
3M và bản lĩnh kinh doanh của người Mỹ 3M và bản lĩnh kinh doanh của người Mỹ Thành lập tại Mỹ vào năm 1902, lúc đầu, 3M chỉ là một công ty chuyên về khai khoáng thuộc bang Minnesota,. Vậy nhưng, chỉ trong thời gian không lâu, 3M đã nhanh chóng đổi mới và không ngừng phát triển, từ một công ty khai khoáng trở thành tập đoàn đa công nghệ với lợi nhuận trên 2 tỷ USD trong tổng doanh thu 17,5 tỷ USD. Hiện 3M có khoảng 75.000 nhân viên trên 20 quốc gia. Chiến lược phát triển thị trường Để phát triển, kế hoạch của 3M là mua lại các đối thủ cạnh tranh cùng nhiều hãng kinh doanh khác trên thị trường. Cuối thập niên 80, hai thương vụ mua bán “nổi đình nổi đám” lúc đó của 3M là tập đoàn K&B Electronics và tập đoàn Dynatel. Nếu như 3M nhắm đến K&B Electronics nhằm mở rộng sản xuất các sản phẩm măng xông thì với Dynatel, 3M hy vọng sẽ chiếm lĩnh thị trường các thiết bị kiểm nghiệm công nghiệp tại Mỹ và châu Âu. Hai thương vụ mua bán này đã ngốn mất của 3M gần 20 tỷ USD, trong đó tiền đầu tư cho riêng Dynatel đã lên đến 12,5 tỷ USD. Năm 2000, một kế hoạch đầy tham vọng của 3M đã được thực thi. Đó là chiến dịch xâm chiếm thị trường công nghiệp viễn thông, một lĩnh vực đang lên cơn sốt thời bấy giờ. Mở đầu kế hoạch, 3M mua lại hãng PSI Telecom – một tập đòan truyền thông có thị trường khá rộng lớn cùng mạng lưới phân phối rộng khắp tại Mỹ và một số nước châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, với giá 4,2 tỷ USD. . Tiếp theo, 3M không tiếc 11,2 tỷ USD để có được 65% cổ phiếu của tập đoàn Quates (gồm cả Quantes AG và Pouyet SA) - một hàng sản xuất sản phẩm công nghiệp viễn thông có uy tín tại châu Âu. Sau khi có trong tay những “con bài chiến lược” trên thị trường, 3M tập trung nguồn lực cho các chiến dịch chinh phục khách hàng. Với phương châm “Khách hàng sẽ quyết định 3M phải làm gì”, mạng lưới kinh doanh của 3M được đánh giá là rất hiệu quả bởI họ biết đặt lợI ích của khách hàng lên hàng đầu trong các chiến lược sản phẩm, dịch vụ và giải pháp. Song song với việc phục vụ khách hàng, 3M tập trung vào việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm (R&D). Chưa đầy 4 năm, 3M đã sở hữu trong tay gần 200 bằng sáng chế công nghiệp và giải pháp hữu ích do Mỹ và châu Âu cấp có phạm vi áp dụng rộng rãi. Hãng chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực các sản phẩm mang tính giải pháp riêng biệt cho khách hàng với chất lượng cao như hệ thống đấu nối cáp quang và cáp đồng; hệ thống quản lý cáp quang và cáp đồng; hệ thống tủ đấu nối cáp dùng cho ngoài trời và trong nhà; các hệ thống cấu trúc cáp quang và cáp đồng; các thiết bị kiểm tra, chẩn đoán và dò tìm; giải pháp băng thông rộng cho viễn thông và mạng... Phát huy thành công với công nghệ, 3M tiếp tục đầu tư nghiên cứu công nghệ mới như đầu tư phát triển công nghệ hệ thống truyền tải quang thế hệ mới STM-64, MADM,.. Các phương pháp của 3M mang tính chủ động, sáng tạo nhằm giảm thiểu nhược điểm của sản phẩm đồng thời rút ngắn qui trình sản xuất. Ngoài ra, các giải pháp công nghệ mới về phần mềm còn giúp cho các bộ phận khác nhau của 3M ở khắp nơi trên thế giới có thể kết hợp công việc với nhau một cách nhuần nhuyễn. Nhờ sự đổi mới công nghệ, 3M đã chiếm lĩnh thị trường cáp quang Bắc Mỹ, năm 2001 thị phần của hãng lên tới 45,4% trong tổng thị phần khu vực và 25% thị phần của châu Âu. Với kết quả này, 3M đã rất thành công khi nâng cao đáng kể giá trị cho khách hàng, cho cổ đông và cho nhân viên của mình. Để hạ được giá thành sản xuất cho sản phẩm của mình, 3M đã tìm đến những nhà cung ứng tại các thị trường đang phát triển. Bên cạnh đó, khi mua nguyên liệu, hãng còn cố gắng gom các chi nhánh của công ty ở các vùng khác nhau để được nhận các ưu đãi về giá. 3M cũng cố gắng đồng bộ hóa những chi tiết sản phẩm trong trường hợp không có những khác biệt lớn để có thể mua chúng qua cùng một nhà cung ứng và có được mức giảm giá đáng kể. Thương hiệu quyết định thành công Cũng như nhiều công ty Mỹ khác, 3M rất chú trọng phát triển thương hiệu, coi đây là một trong những chìa khóa then chốt dẫn tới thành công. Chiến lược thương hiệu của 3M rất đa dạng và được kết hợp theo các cấp độ khác nhau. Peter Lynch, giám đốc bộ phận marketing và thương hiệu của 3M nói: “Chúng tôi luôn có những quan điểm hết sức nghiêm túc về vấn đề thương hiệu. Một sư lơ là cho dù rất nhỏ cũng có thể gây ảnh hưởng đến hình ảnh của công ty hay sựkhông nhất quán trong nghiên cứu, phát triển cũng có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường”. Để đối phó với những thách thức của các sản phẩm cạnh tranh cùng loại trên thị trường, đặc biệt là trên thị trường châu Âu, 3M đã thêm vào các sản phẩm một số tên gọi riêng biệt hơn, phần lớn là tên người sáng chế ra sản phẩm đó. Nó tương tự như các thương hiệu Wolkswagen Beetle hay Johnson Brillo. Trong bất cứ ngôn ngữ nào, những tên người cụ thể đều tạo cho sản phẩm bản sắc nhất định và khiến cho những hình ảnh sản phẩm trở nên gần gũi và thân thiện hơn. Rồi các sản phẩm loại này lại có nhiều dạng khác nhau: màu xanh lá cây, xanh da trời, đỏ... tùy thuộc vào hình dáng và công dụng. Vậy nhưng, đã có lúc, 3M phải đương đầu với tình thế khó khăn do chính chiến lược thương hiệu của mình. Trong vòng 20 mươi năm cuối thế kỷ 20, việc kinh doanh của 3M có những bước phát triển mạnh mẽ, thị trường không ngừng mở rộng, hàng loạt các sản phẩm công nghiệp mới ra đời. Chính điều này khiến danh mục thương hiệu của hãng cũng tăng rất nhanh và bắt dầu gây ra những rắc rối khó kiểm soát. Một số cuộc điều tra do chính 3M tiến hành cho thấy cái tên 3M vẫn chưa được biết đến nhiều trên thế giới cho dù hãng sở hữu trong tay hàng chục nghìn sản phẩm khác nhau và luôn có mặt trong danh sách top 50 công ty lớn nhất thế giới của tạp chí Fortune. Theo kết quả cuộc điều tra thì nhận thức về nhãn hiệu chỉ đạt mức 65% và chỉ có 25% số người được hỏi biết 3M là gì và sản xuất cái gì. “Việc ít người biết đến như vậy đã thật sự tạo ra hạn chế lớn cho vai trò chính của một ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: