Danh mục

ÐẶC ÐIỂM DỊCH TỄ HỌC UNG THƯ CỔ TỬ CUNG

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 114.05 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Thư Viện Số

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong năm 1995 - 1996, chúng tôi đã tiến hành việc ghi nhận ung thư quần thể tại 26 trung tâm, bệnh viện tại thành phố Hồ Chí Minh với 1.057 ca ung thư cổ tử cung mới xuất hiện trên tổng số 8.418 ca (chiếm tỉ lệ 12,6%) và 4.338 ca ở nữ giới (24,4%). Ung thư cổ tử cung tại TP. Hồ Chí Minh có xuất độ cao (ASR = 26,0) trong vùng Ðông Nam Á cũng như trên thế giới, đặc biệt cao gấp bốn lần so với số liệu ghi nhận ung thư tại Hà...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ÐẶC ÐIỂM DỊCH TỄ HỌC UNG THƯ CỔ TỬ CUNG ÐẶC ÐIỂM DỊCH TỄ HỌC UNG THƯ CỔ TỬ CUNGTÓM TẮTTrong năm 1995 - 1996, chúng tôi đã tiến hành việc ghi nhận ung thư quầnthể tại 26 trung tâm, bệnh viện tại thành phố Hồ Chí Minh với 1.057 ca ungthư cổ tử cung mới xuất hiện trên tổng số 8.418 ca (chiếm tỉ lệ 12,6%) và4.338 ca ở nữ giới (24,4%). Ung thư cổ tử cung tại TP. Hồ Chí Minh có xuấtđộ cao (ASR = 26,0) trong vùng Ðông Nam Á cũng như trên thế giới, đặcbiệt cao gấp bốn lần so với số liệu ghi nhận ung thư tại Hà nội (ASR =6,1).Trong khi nhiễm virút bướu gai ở người (HPV, chủ yếu típ 16 và 18)hiện nay được đề cập chủ yếu như yếu tố nguy cơ chính của ung thư cổ tửcung, sanh đẻ nhiều vẫn được xem là yếu tố nguy cơ độc lập trong nhóm phụnữ lớn tuổi tại TP. Hồ Chí MinhSUMMARYEPIDEMIOLOGY OF CERVICAL CANCER IN HO CHI MINH CITY.1995 - 1996Nguyen Manh Quoc * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 2 - No 4 - 1998: 225-230In 1995 - 1996, we developed the population - based cancer registry in 26hospitals in Ho Chi Minh city with 1,057 new cervical cancer cases in a totalof 8,418 cases in both sexes (12,6%) and 4,338 cases in females (24,4%).They are the high incidence rate of cervical cancer (ASR = 26,0) in Ho ChiMinh city in comparison with the data from South East Asia and in theworld, in particular which is four times greater than that in Hanoi in theNorthern Viet Nam (ASR = 6,1).Cervical cancer is now generally thought tobe related to infection with Human Papilloma Virus (HPV, especially HPVtype 16 and HPV type 18), although may be also an independent risk factorin the older generations of women in Ho Chi Minh city.Từ nhiều năm nay, bệnh lý nhiễm trùng và chủ yếu nhiễm ký sinh trùngđứng hàng đầu trong bảng danh sách bệnh lý tại các nước đang phát triểnnhư Việt Nam. Nguyên nhân chính gây tử vong ở các nước đang phát triểnlà các bệnh lý nhiễm trùng, bệnh sản khoa và bệnh lý sơ sinh. Tuy nhiên,trong khoảng hai mươi năm gần đây, bệnh tim mạch và ung thư lại là nhữngnguyên nhân chính gây tử vong ở các nước này. Ngày nay, bệnh ung thưđược nhắc đến ngày càng nhiều tại các nước này, đang là một vấn đề sứckhỏe quan trọng và trong tương lai rất gần (đầu thế kỷ 21) chắc sẽ là mộtgánh nặng thật sự cho đất nước(3).Việt Nam là một nước có mật độ dân số đứng hàng thứ nhì trong các nướcÐông Nam Á (70 triệu dân, theo thống kê dân số năm 1993), đã trải qua bamươi năm chiến tranh, cho đến 1975, là một trong những nước đang pháttriển có nền kinh tế nghèo nhất trên thế giới. Tuy vậy, vài chỉ số về tìnhtrạng xã hội như tỉ lệ mù chữ trong dân số, tử suất ở trẻ em và độ tuổi trungbình vẫn cao hơn một số nước đang phát triển có cùng chỉ số kinh tế(3,9).Cho đến nay, các dữ liệu về xuất độ của ung thư nói chung và của ung thưcổ tử cung nói riêng còn hạn chế, chủ yếu dựa trên tần suất tương đối(relative frequency) từ ghi nhận ung thư tại bệnh viện (hospital based cancerregistry)(7,9).Giữa năm 1993, Trung Tâm Ung Bướu đã tiến hành ghi nhận ung thư quầnthể tại 26 trung tâm, bệnh viện trong thành phố Hồ Chí Minh với 4,8 triệu cưdân (1996).Trong bài này, chúng tôi trình bày kết quả ghi nhận ung thư cổ tử cung tạiTP. Hồ Chí Minh trong 2 năm 1995 - 1996 với 1.057 ca ung thư mới trongtổng số 8.418 các ung thư (chiếm tỉ lệ 12,55% các ung thư; 24,4% ở nữgiới). Các số liệu được so sánh với số liệu ghi nhận ung thư tại Hà nội(1991-1993) và các số liệu của các nước trong vùng Ðông Nam Á và trênthế giới.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUNăm 1990, ghi nhận ung thư TP. Hồ Chí Minh được thành lập, trụ sở đặt tạiTrung Tâm Ung Bướu, chủ yếu dựa trên nguồn số liệu của Trung Tâm UngBướu là một trung tâm chuyên khoa ung thư tiếp nhận chủ yếu bệnh nhânung thư của miền Nam Việt Nam.Tháng 6 năm 1993, dựa vào số liệu của Trung tâm Lao và Bệnh Phỗi PhạmNgọc Thạch, Trung tâm Tai-Mũi-Họng, bệnh viện Bình Dân, Bộ Môn Giảiphẫu bệnh Ðại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh và Trung tâm Ung Bướu TP.Hồ Chí Minh, bước đầu tiến hành ghi nhận ung thư quần thể. Ðến năm 1996thì việc ghi nhận ung thư được tiến hành rộng rãi trên toàn TP. Hồ Chí Minh(dựa trên số liệu của 26 đơn vị y tế trên địa bàn thành phố(. Phạm vi hoạtđộng của ghi nhận ung thư quần thể là TP. Hồ Chí Minh, bao gồm 18 quậnhuyện với khoảng 4,8 triệu cư dân.Cách thức ghi nhận là ghi nhận chủ động (nhân viên trong nhóm ghi nhậnung thư chủ động đến các bệnh viện để khai thác dữ liệu) kết hợp với ghinhận thụ động (các trung tâm, bệnh viện bạn hoàn tất chi tiết phiếu mẫu ghinhận ung thư do Trung Tâm Ung Bướu gởi sang).Nguồn thông tin chủ yếu là thống kê y vụ, thống kê bệnh nhân nội trú, ngoạitrú, sổ sách giải phẫu bệnh và sổ biên bản tử vong (nếu có) (ví dụ như dựatrên sổ giải phẫu bệnh của Bộ Môn Giải Phẫu bệnh của trường Ðại học YDược). Hiện nay vẫn chưa thực hiện được sổ tử vong ở nước ta. Ðiều nàycũng là một nguyên nhân làm chúng takhông đánh g ...

Tài liệu được xem nhiều: