Danh mục

Ấn chương Việt Nam -ẤN CHƯƠNG VIỆT NAM THỜI TÂY SƠN (1788 - 1802)

Số trang: 19      Loại file: pdf      Dung lượng: 509.58 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 9,000 VND Tải xuống file đầy đủ (19 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đặc điểm lịch sử Vào đầu thập niên thứ 7 của thế kỷ XVIII, xã hội Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc cực kỳ rối ren, quyền thần Trương Phúc Loan nắm quyền vô đạo, kinh tế suy sụp và lòng dân ly tán. Năm Quý Tỵ (1773) ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ[96] cùng với Nguyễn Thung và Huyền Khê[97] từ ấp Tây Sơn dấy quân chiếm cứ hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn[98], kí một giao ước với nữ chúa Chiêm Thành[99] chống lại chính quyền Đàng Trong mở đầu cho một...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ấn chương Việt Nam -ẤN CHƯƠNG VIỆT NAM THỜI TÂY SƠN (1788 - 1802) Ấn chương Việt Nam ẤN CHƯƠNG VIỆT NAM THỜI TÂY SƠN (1788 - 1802) I. Đặc điểm lịch sử của ấn chương Việt Nam thời Tây Sơn 1. Đặc điểm lịch sử Vào đầu thập niên thứ 7 của thế kỷ XVIII, xã hội Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc cực kỳ rối ren, quyền thần Trương Phúc Loan nắm quyền vô đạo, kinh tế suy sụp và lòng dân ly tán. Năm Quý T ỵ (1773) ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ[96] cùng với Nguyễn Thung và Huyền Khê[97] từ ấp Tây Sơn dấy quân chiếm cứ hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn[98], kí một giao ước với nữ chúa Chiêm Thành[99] chống lại chính quyền Đàng Trong mở đầu cho một giai đoạn lịch sử mới - giai đoạn Tây Sơn. Tuy ngắn ngủi nhưng giai đoạn Tây Sơn đã để lại nhiều sự kiện lịch sử trọng đại mà những hiện vật ấn chương và hình dấu ấn trên văn bản Hán Nôm còn lưu lại đến ngày nay là những minh chứng rõ nét và sống động. Ngay từ thời kỳ đầu khởi nghĩa những người lãnh đạo Tây Sơn đã nêu cao khẩu hiệu “Phụng thiên phạt bạo Nguyễn Phúc” quyết tâm lật đổ chính quyền chúa Nguyễn Phúc Thuần. Để thể hiện rõ tinh thần của khẩu hiệu trên, họ đã cho làm một quả ấn gỗ khắc 7 chữ Hán Phụng thiên phạt bạo nguyễn phúc 奉天伐暴阮福 dùng đóng trên các bản hiệu triệu, cáo thư, từ gửi đi và đóng trên các tờ quân lệnh. Con dấu này đã được dùng khá lâu, cả trong thời gian quân Tây Sơn đánh miền Bắc tiêu diệt quân Trịnh, Nguyễn Huệ đã dùng đóng trên các bản công văn quân lệnh. Tư liệu này đã được Bùi Dương Lịch ghi lại trong Nghệ An ký: “… Duy quân lệnh của Tây Sơn thì dùng riêng dấu Phụng thiên phạt bạo Nguyễn Phúc…”[100]. Đây được coi là ấn dấu đầu tiên thời Tây Sơn và là minh chứng khá rõ về mục đích ý nghĩa của phong trào Tây Sơn. Đáng tiếc vì chiến tranh binh hỏa, thiên tai đã chôn vùi tất cả ấn dấu thời Tây Sơn, trong đó có ấn dấu này. Mùa xuân năm Bính Thân 1776 Ngu yễn Nhạc chuyển quân đóng bản doanh ở chùa Thập Tháp phía Bắc thành Đồ Bàn[101] rồi cho đắp lại thành này và xưng là Thiên vương, phong Nguyễn Lữ làm Thiếu phó và Nguyễn Huệ làm phụ chính. Tại đây Nguyễn Nhạc đã cho đúc ấn vàng lớn, nhưng cứ đúc là bị sứt, phải ba lần mới hoàn thành[102]. Cũng như các vua chúa phong kiến Việt Nam trước Tây Sơn, khi lên ngôi, đặt hoặc đổi niên hiệu, họ thường cho đúc những quả ấn lớn bằng vàng sử dụng với ý nghĩa quốc gia trọng đại, dùng đóng trên các bản chiếu, chỉ, dụ, chế cáo, sắc phong. Ở đây Nguyễn Nhạc cũng làm như vậy. Nghiên cứu ấn chương thời Tây Sơn với những quả ấn lớn còn chứng tích tới ngày nay như ấn Quảng vận chi bảo dùng đóng trên các đạo chiếu đồ… Sắc mệnh chi bảo và Tiên nhu chi bảo dùng đóng trên các đạo sắc phong và Triều đường chi ấn đóng trên tờ truyền. Chúng tôi thấy các ấn dấu Sắc mệnh chi bảo, Tiên nhu chi bảo và Triều đường chi ấn đều có niên đại sau thời Thái Đức. Vả lại khá nhiều văn bản chữ Hán ghi rõ Nguyễn Huệ khi còn là Chính Bình vương dùng niên hiệu Thái Đức đều được đóng dấu Quảng vận chi bảo… Do đó việc khẳng định ấn dấu Quảng vận chi bảo được làm ra từ năm 1776 là có cơ sở. Quả ấn này buổi đầu làm ra khi vương triều tây Sơn còn quá non trẻ và quá ít ấn dấu, nên với tác dụng đa năng Quảng vận chi bảo còn được đóng trên nhiều loại hình văn bản khác nhau như những bức thư quan trọng sẽ được trình bày dưới đây. Sử cũ ghi: “Năm 1778 Nguyễn Nhạc tự lập làm Minh Đức Hoàng đế, đặt ngụy hiệu là Thái Đức nguyên niên, cho đổi thành Đồ Bàn làm thành Hoàng đế, lấy Lữ làm Tiết chế và Huệ làm Long Nhương tướng quân lại sai bọn Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy, Hộ giá Phạm Ngạn đem thuỷ quân lấn cướp vùng ven biển Trấn biên…”[103]. Chính thức từ đây lịch sử phong kiến Việt Nam thêm một vương triều mới, Nguyễn Nhạc xưng đế, đặt niên hiệu, phong chức cho các quan t ướng… Tương tự như các triều đại mới thành lập, song song với việc đặt quan phong t ướng là việc làm và ban cấp ấn tín. Triều đại Tây Sơn chắc chắn cũng thực hiện như vậy, thực trạng ấn chương giai đoạn này còn lại rất ít, nên chúng tôi chỉ có thể giới thiệu một cách khái quát sơ bộ và đôi khi chỉ là những tư liệu dẫn. Năm 1786 được Nguyễn Hữu Chỉnh hiến kế, Nguyễn Nhạc phong Nguyễn Huệ làm Tiết chế các quân thủy bộ, Nguyễn Hữu Chỉnh[104] làm Hữu quân Đô đốc, Vũ Văn Nhậm[105] làm Tả quân Đô đốc tiến đánh Phú Xuân. Dùng kế ly gián Nguyễn Huệ mật sai Hữu Chỉnh đem bức thư bọc sáp, tức là dùng sáp đốt cháy niêm phong bức thư, khi sáp còn nóng thì đóng dấu niêm đè lên trên. Nội dung thư hẹn Trần Đình Thể làm nội ứng, nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh lại cố ý đưa nhầm cho Phạm Ngộ Cầu[106]. Ngộ Cầu xem thư thấy có dấu niêm phong nghiêm chỉnh, tin bức thư là thực, mang lòng nghi Trần Đình Thể. Kết cục kế ly gián thành công, Nguyễn Huệ chiếm được Phú Xuân còn Ngộ Cầu và Đình Thể đều bị giết. Như chúng tôi đã trình bày ở khái luận về ấn chương thì một trong chức năng của con dấu là khẳng định tính chân thực (Authentifie). Ở trường hợp này Nguyễn Huệ và Nguyễn Hữu Chỉnh đã lợi dụng khai thác chức năng tín thực ...

Tài liệu được xem nhiều: