Danh mục

Ấn chương Việt Nam - Tổ chức quân đội và ấn dấu của một số danh tướng đầu thời Nguyễn

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 367.16 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (12 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Quân đội nhà Nguyễn có tiền thân từ thời các chúa Nguyễn. Trong thời kỳ chiến tranh với nhà Tây Sơn, quân đội là lực lượng căn bản để thành lập nhà Nguyễn, và sau này khi nhà Nguyễn đã giành được quyền thống trị thì quân đội trở thành một bộ phận quan trọng của nhà nước phong kiến Việt Nam đương thời.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ấn chương Việt Nam - Tổ chức quân đội và ấn dấu của một số danh tướng đầu thời NguyễnẤn chương Việt Nam - Tổ chức quân đội và ấndấu của một số danh tướng đầu thời NguyễnQuân đội nhà Nguyễn có tiền thân từ thời các chúaNguyễn. Trong thời kỳ chiến tranh với nhà Tây Sơn,quân đội là lực lượng căn bản để thành lập nhàNguyễn, và sau này khi nhà Nguyễn đã giành đượcquyền thống trị thì quân đội trở thành một bộ phậnquan trọng của nhà nước phong kiến Việt Namđương thời.Khi Nguyễn Phúc Ánh xưng vương ở Sài Gòn (năm1780) thì quân đội nhà Nguyễn đã được tổ chức vàtrang bị tương đối đầy đủ. Biên chế quân đội Nguyễntheo hình thức Ngũ chế, mỗi bậc chia làm năm:Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu. Cấp Quân là cấp cao nhấtvà được chia làm năm Quân: Trung quân, Tiền quân,Tả quân, Hữu quân và Hậu quân. Mỗi Quân có mộtviên Chưởng phủ sự hay một chức Đô thống đứngđầu, thường được ghi là Đô thống phủ chưởng phủsự. Có binh chủng đặt Doanh không đặt Quân, cấpDoanh nhỏ hơn cấp Quân, mỗi Doanh có 5 Vệ đều domột chức Đô thống hay một quan Thống chế chỉ huy,dưới cấp Quân, Doanh là cấp Vệ hoặc Cơ, dưới Vệ,Cơ là cấp Đội, Thuyền.Sau này khi chiến tranh chấm dứt, nhà Nguyễn đặtriêng lực lượng quân đội ở kinh gồm ba loại: Thânbinh, Cấm binh và Tinh binh. Mỗi Binh chia làm cácDoanh, Vệ hoặc Viện, thuộc cấp có các Đội, Ban.Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đặt cấp tỉnh, đứngđầu quân binh ở tỉnh là chức Đề đốc hoặc Lãnh binh,Phó Lãnh binh, tùy từng tỉnh lớn hay nhỏ mà đặt cấpsố Vệ, Cơ, Đội nhất định.Hàng ngũ tướng tá trong quân đội, từ Đại tướng đứngđầu Quân cho đến Viên chỉ huy ở cấp Đội, Thuyềnđều được ban cấp ấn kiềm, Quan phòng hoặc Đồ kýđể dùng trong việc quân binh. Mặt ấn dấu thườngkhắc tên đơn vị, tên chức vụ, hoặc cả tên đơn vị vàtên chức vụ trong một quả ấn.Thời Gia Long Nguyễn Ánh cho đến giai đoạn đầutriều Minh Mệnh, tướng lĩnh trong quân đội giữ vị tríthen chốt trong chính quyền. Hầu hết các Đại tướngđứng đầu năm Quân đều là những đại thần quan trọngcủa triều đình. Chức vụ và quyền hạn của tướng lĩnhhơn hẳn các văn quan mặc dầu phẩm trật có ngangnhau. Sự biến đổi từ những đại tướng cầm quân trongchiến trận trở thành viên quan cai trị về mặt hànhchính các cấp là đặc trưng nổi bật của tổ chức hànhchính quan chế đầu thời Nguyễn.Nhiều tướng tài theo giúp Nguyễn Ánh, nhưng khichiến tranh chấm dứt chỉ còn lại số ít tướng lĩnh cótên tuổi như Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Nhân,Lê Văn Duyệt v.v… Họ đều là những Đại tướngđứng đầu một trong các Quân, khi được phong chứccác tướng trên đều được nhận ấn tín. Ấn tín ở đâybiểu thị cho quyền lực của viên tướng và pháp lệnhcủa vương triều đối với quân đội và cả dân chúng. Sửliệu đã giúp ta biết được ấn của năm tướng ở nămQuân đều được làm bằng đồng, phần núm ấn đúchình kỳ lân, mặt dấu hình vuông, kích thước 2 tấc, 1phân 6 ly, trọng lượng và thể tích rất lớn chỉ sau mộtsố Bảo Tỷ của Hoàng đế Nguyễn. Những hiện vật ấntín này đáng tiếc cho đến nay hầu hết không còn giữđược.Hiện vật tuy đã mất nhưng dấu tích vẫn còn. Trongtập Công văn cựu chỉ còn lưu giữ hình dấu của Tiềnquân Nguyễn Văn Thành, dấu hình vuông cỡ9,3x9,3cm, bốn chữ Triện vuông vức xếp theo haihàng là 4 chữ Tiền quân chi ấn 前軍之印 (ấn củaTiền quân). Dấu được đóng ở dưới dòng ghi niênhiệu Gia Long nguyên niên bát nguyệt sơ thất nhật.Trước trang có hình dấu là trang có dòng chữ HánKhâm sai chưởng tiền quân bình tây đại tướng quânquận công. (H. 145)Việc khẳng định con dấu này là của Nguyễn VănThành là chính xác. Sử cũ ghi: “… Cho Khâm saichưởng Tiền quân Bình tây Đại tướng quân điều bátchư đạo Bộ binh Quận công”[209]. Con dấu Tiềnquân chi ấn của Nguyễn Văn Thành được đóng vàongày 7 tháng 8 năm Gia Long thứ 1 (1802) trong mộtvăn bản chữ Hán ngắn gọn nói về huyện Lạc Thổ,phủ Thiên Quan, xứ Thanh Hoa ngoại.Châu bản triều Nguyễn đã giúp chúng tôi tìm đượcdấu tích của những tướng lĩnh khác ngoài NguyễnVăn Thành. Trong quyển 2 trang 239 đời Gia Longcó hình dấu vuông cỡ lớn màu son, kích cỡ, bố cục,tự dạng đều giống như dấu Tiền quân chi ấn chỉ khácbốn chữ Triện bên trong là Hữu quân chi ấn右軍之印 (ấn của Hữu quân). Trang bên còn ghi rõdòng chữ Hán Khâm sai chưởng hữu quân thầnNguyễn Văn Nhân. Sử cũ ghi lại khi theo NguyễnÁnh thì Nguyễn Văn Nhân mới là Cai đội, khi chiếntranh chấm dứt Nguyễn Văn Nhân được thăng làKhâm sai chưởng Hữu quân Bình Tây tướng quân.(H. 146)Gần đây trong bài Chủ nhân ấn đồng năm 1802 ? haitác giả Nguyễn Hữu Thông và Nguyễn Văn Đăng đãgiới thiệu quả ấn Tả quân chi ấn mà họ đã tìm được ởHuế năm 1992. Xin được trích dẫn bài viết trên.“Ấn được đúc bằng đồng thau. Hình thể quả ấn gồm2 phần:Phần núm đúc hình con kỳ lân, miệng ngậm hạt châu,đầu to ngẩng cao, thân tròn, đuôi đài vượt quá phầnthân. Hai bên hông từ chân đến lưng có 4 dải trang tríđao lửa đúc nổi; sống lưng chạm vân thủy ba. Dángnét tinh xảo, bề thế. Toàn bộ chiều cao của núm ấn(con lân) và thân ấn là 7,2cm.Phần thân ấn (h ...

Tài liệu được xem nhiều: