Án lệ 36/2020/AL và quy định về bên ngay tình
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 430.48 KB
Lượt xem: 22
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết trình bày án lệ 36/2020/AL được Hội đồng thẩm pháp Tòa án nhân dân tối cao (TAND tối cao) thông qua ngày 5/2/2020.149 Nội dung án lệ hình thành trên phần Nhận định của Quyết định giám đốc thẩm số 05/2018/KDTM-GĐT ngày 18/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao. Cụ thể, nội dung tranh chấp về hợp đồng tín dụng được giải quyết sơ thẩm bởi tòa án thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Án lệ 36/2020/AL và quy định về bên ngay tình ÁN LỆ 36/2020/AL VÀ QUY ĐỊNH VỀ BÊN NGAY TÌNH Trương Trọng Hiểu Khoa Luật Kinh tế Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG-HCM1. Dẫn nhập: Nội dung án lệ Án lệ 36/2020/AL được Hội đồng thẩm pháp Tòa án nhân dân tối cao (TAND tốicao) thông qua ngày 5/2/2020.149 Nội dung án lệ hình thành trên phần Nhận định củaQuyết định giám đốc thẩm số 05/2018/KDTM-GĐT ngày 18/5/2018 của Hội đồng Thẩmphán TAND tối cao. Cụ thể, nội dung tranh chấp về hợp đồng tín dụng được giải quyết sơthẩm bởi tòa án thuộc tỉnh Bà rịa – Vũng tàu có thể được tóm tắt như sau: Năm 2010, vợ chồng ông C và bà T ký hợp đồng tín dụng vay tiền ngân hàng V.Hợp đồng được bảo đảm bằng biện pháp thế chấp quyền sử dụng đất kèm giấy chứngnhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C và bà T. Đây là giấy chứng nhận quyền sửdụng được được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho vợ chồng ông C và bà T saukhi đã hoàn thành thủ tục nhận chuyển quyền sử dụng đất của vợ chồng bà H và ông Ltrước đó. Với giấy chứng nhận này, vợ chồng ông C và bà T cũng đã nhiều lần thế chấpquyền sử dụng đất của mình để vay tiền tại các ngân hàng. Đối với hợp đồng tín dụnggiữa vợ chồng ông C và bà T và ngân hàng V, giao dịch bảo đảm cũng đã được đăng kýtại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Tranh chấp phát sinh vào năm 2011 khi vợ chồng ông C và bà T không thanh toántiền vay đầy đủ và đúng hạn, và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên bị thu hồi docó sự sai lệch về mặt diện tích. Bác bỏ đơn kiện (và kháng cáo) của ngân hàng V, cả haicấp tòa sơ thẩm và phúc thẩm đều cho rằng, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vôhiệu và quyền sử dụng đất nói trên không có giá trị bảo đảm thanh toán cho hợp đồng tíndụng. Lý do chính để các cấp tòa tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu là do “hợp đồng có đốitượng không thể thực hiện được” (Điều 411 BLDS 2005). Theo Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúcthẩm căn cứ Điều 411 BLDS năm 2005 cho rằng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đấtnêu trên vô hiệu do đối tượng của Hợp đồng thế chấp này không còn là không đúng. Cụthể, bản án giám đốc thẩm nhận định: [2] …Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất đã nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông C, bà T, vì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà Trần Thị Ngọc H, ông Trần Huỳnh L và vợ chồng ông C, bà T đã hoàn tất, các bên không có tranh chấp gì về Hợp đồng chuyển nhượng này.149 TANDTC, Án lệ 36/2020/AL (May 2, 2020).Link tham khảo: https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/anle 91 [3] … Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T với Ngân hàng tuân thủ đúng quy định pháp luật nên Hợp đồng này có hiệu lực pháp luật.150 Hai nội dung nhân định này được trích làm quy tắc án lệ trong Án lệ 36/2020/ALngày 5/2/2020.151 Theo đó, quy tắc án lệ được khái quát gồm hai phần. Phần tình huốngán lệ nêu: “Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tuân thủ quy định của pháp luật nhưngsau đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị thu hồi, hủy bỏ do sai sót về diện tích đấtvà trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc thu hồi, hủy bỏ giấychứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng đất hợp pháp của ngườisử dụng đất.” Tương ứng, phần giải pháp pháp lý khẳng định, “trường hợp này, phải xácđịnh hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật.”1522. Bàn về cơ sở hình thành án lệ Tuy nhiên, quyết định giám đốc thẩm được đưa ra theo các căn dựa vào quy địnhtại điều 322, 343 BLDS năm 2005; các điều 342, 411 BLDS năm 2005 (tương ứng vớicác điều 317, 408 BLDS năm 2015). Ngoài ra, các điều 61, 62 Luật Đất đai năm 2003 vàcác điều 46, 106 Luật Đất đai năm 2003 (tương ứng với các điều 95,167 Luật Đất đainăm 2013) cũng được viện dẫn.153 Có thể thấy, quyết định không công nhận bản án sơ thẩm và phúc thẩm của Hộiđồng thẩm phán TAND tối cao chỉ dựa trên những lập luận và quy định về hiệu lực củahợp đồng. Một, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà H, ông L vớivợ chồng ông C và bà T (bị đơn) đã có hiệu lực. Có nghĩa, việc sử dụng đất theo đó đãthuộc quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C và bà T. Tuy nhiên, vấn đề phát sinh tranhchấp phát sinh ở thời điểm sau đó, khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp chovợ chồng ông C và bà T đã bị thu hồi. Hay nói cách khác, kể từ thời điểm đó, quyền sửdụng đất của họ có bị ảnh hưởng gì không và đâu là cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳngđịnh là không (hoặc có). Đương nhiên, nhận định này đã trở thành một trong hai n ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Án lệ 36/2020/AL và quy định về bên ngay tình ÁN LỆ 36/2020/AL VÀ QUY ĐỊNH VỀ BÊN NGAY TÌNH Trương Trọng Hiểu Khoa Luật Kinh tế Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG-HCM1. Dẫn nhập: Nội dung án lệ Án lệ 36/2020/AL được Hội đồng thẩm pháp Tòa án nhân dân tối cao (TAND tốicao) thông qua ngày 5/2/2020.149 Nội dung án lệ hình thành trên phần Nhận định củaQuyết định giám đốc thẩm số 05/2018/KDTM-GĐT ngày 18/5/2018 của Hội đồng Thẩmphán TAND tối cao. Cụ thể, nội dung tranh chấp về hợp đồng tín dụng được giải quyết sơthẩm bởi tòa án thuộc tỉnh Bà rịa – Vũng tàu có thể được tóm tắt như sau: Năm 2010, vợ chồng ông C và bà T ký hợp đồng tín dụng vay tiền ngân hàng V.Hợp đồng được bảo đảm bằng biện pháp thế chấp quyền sử dụng đất kèm giấy chứngnhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C và bà T. Đây là giấy chứng nhận quyền sửdụng được được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho vợ chồng ông C và bà T saukhi đã hoàn thành thủ tục nhận chuyển quyền sử dụng đất của vợ chồng bà H và ông Ltrước đó. Với giấy chứng nhận này, vợ chồng ông C và bà T cũng đã nhiều lần thế chấpquyền sử dụng đất của mình để vay tiền tại các ngân hàng. Đối với hợp đồng tín dụnggiữa vợ chồng ông C và bà T và ngân hàng V, giao dịch bảo đảm cũng đã được đăng kýtại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Tranh chấp phát sinh vào năm 2011 khi vợ chồng ông C và bà T không thanh toántiền vay đầy đủ và đúng hạn, và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên bị thu hồi docó sự sai lệch về mặt diện tích. Bác bỏ đơn kiện (và kháng cáo) của ngân hàng V, cả haicấp tòa sơ thẩm và phúc thẩm đều cho rằng, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vôhiệu và quyền sử dụng đất nói trên không có giá trị bảo đảm thanh toán cho hợp đồng tíndụng. Lý do chính để các cấp tòa tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu là do “hợp đồng có đốitượng không thể thực hiện được” (Điều 411 BLDS 2005). Theo Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúcthẩm căn cứ Điều 411 BLDS năm 2005 cho rằng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đấtnêu trên vô hiệu do đối tượng của Hợp đồng thế chấp này không còn là không đúng. Cụthể, bản án giám đốc thẩm nhận định: [2] …Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất đã nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông C, bà T, vì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà Trần Thị Ngọc H, ông Trần Huỳnh L và vợ chồng ông C, bà T đã hoàn tất, các bên không có tranh chấp gì về Hợp đồng chuyển nhượng này.149 TANDTC, Án lệ 36/2020/AL (May 2, 2020).Link tham khảo: https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/anle 91 [3] … Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T với Ngân hàng tuân thủ đúng quy định pháp luật nên Hợp đồng này có hiệu lực pháp luật.150 Hai nội dung nhân định này được trích làm quy tắc án lệ trong Án lệ 36/2020/ALngày 5/2/2020.151 Theo đó, quy tắc án lệ được khái quát gồm hai phần. Phần tình huốngán lệ nêu: “Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tuân thủ quy định của pháp luật nhưngsau đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị thu hồi, hủy bỏ do sai sót về diện tích đấtvà trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc thu hồi, hủy bỏ giấychứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng đất hợp pháp của ngườisử dụng đất.” Tương ứng, phần giải pháp pháp lý khẳng định, “trường hợp này, phải xácđịnh hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật.”1522. Bàn về cơ sở hình thành án lệ Tuy nhiên, quyết định giám đốc thẩm được đưa ra theo các căn dựa vào quy địnhtại điều 322, 343 BLDS năm 2005; các điều 342, 411 BLDS năm 2005 (tương ứng vớicác điều 317, 408 BLDS năm 2015). Ngoài ra, các điều 61, 62 Luật Đất đai năm 2003 vàcác điều 46, 106 Luật Đất đai năm 2003 (tương ứng với các điều 95,167 Luật Đất đainăm 2013) cũng được viện dẫn.153 Có thể thấy, quyết định không công nhận bản án sơ thẩm và phúc thẩm của Hộiđồng thẩm phán TAND tối cao chỉ dựa trên những lập luận và quy định về hiệu lực củahợp đồng. Một, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà H, ông L vớivợ chồng ông C và bà T (bị đơn) đã có hiệu lực. Có nghĩa, việc sử dụng đất theo đó đãthuộc quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C và bà T. Tuy nhiên, vấn đề phát sinh tranhchấp phát sinh ở thời điểm sau đó, khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp chovợ chồng ông C và bà T đã bị thu hồi. Hay nói cách khác, kể từ thời điểm đó, quyền sửdụng đất của họ có bị ảnh hưởng gì không và đâu là cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳngđịnh là không (hoặc có). Đương nhiên, nhận định này đã trở thành một trong hai n ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Án lệ Việt Nam Án lệ 36/2020/AL Hợp đồng tín dụng Thế chấp quyền sử dụng đất Cơ sở hình thành án lệTài liệu liên quan:
-
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất (Mẫusố19/HĐTC)
6 trang 276 0 0 -
11 trang 171 0 0
-
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (Mẫu số 18/HĐTC)
6 trang 124 0 0 -
93 trang 99 0 0
-
56 trang 75 0 0
-
Thông tư số 09/2016-TTLT-BTP-BTNMT
58 trang 75 0 0 -
Giáo trình Pháp luật kinh tế: Phần 1 - PGS. TS. Lê Thị Thanh (Tái bản lần 2)
231 trang 53 0 0 -
Mẫu hợp đồng vay vốn - Hợp đồng tín dụng
5 trang 49 0 0 -
12 trang 43 0 0
-
Phiếu yêu cầu xóa đăng ký - Mẫu số 04/XĐK
4 trang 43 0 0