Ảnh hưởng của môi trường thể chế đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng đồng bằng sông Cửu Long
Số trang: 15
Loại file: pdf
Dung lượng: 310.58 KB
Lượt xem: 21
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục tiêu chính của bài nghiên cứu là kiểm tra ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về môi trường thể chế đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Vận dụng phương pháp ước lượng mô hình tác động cố định (FEM) và tác động ngẫu nhiên (REM), kết quả nghiên cứu đã phát hiện được thu hút vốn đầu tư FDI của các tỉnh khu vực ĐBSCL chịu tác động bởi nhiều yếu tố trong đó có các yếu tố môi trường thể chế.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ảnh hưởng của môi trường thể chế đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng đồng bằng sông Cửu Long ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG THỂ CHẾ ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ThS.Vũ Thanh An & NCS.ThS.Nguyễn Bá Hoàng Khoa Quản trị, Trường Đại học Luật TP.HCM TÓM TẮT Mục tiêu chính của bài nghiên cứu là kiểm tra ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về môi trường thể chế đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Vận dụng phương pháp ước lượng mô hình tác động cố định (FEM) và tác động ngẫu nhiên (REM), kết quả nghiên cứu đã phát hiện được thu hút vốn đầu tư FDI của các tỉnh khu vực ĐBSCL chịu tác động bởi nhiều yếu tố trong đó có các yếu tố môi trường thể chế. Dựa trên kết quả ước lượng, nghiên cứu cũng đã đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào các tỉnh vùng ĐBSCL trong tương lai. 1. Giới thiệu Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được xem là đầu tàu sản xuất hàng hóa nông nghiệp và là vùng chuyên canh nông nghiệp quan trọng nhất của Việt Nam. Vùng có hơn 17 triệu dân (TCTK, 2019), độ cao trung bình dưới 1,50 m và diện tích khoảng 41.000 km², ĐBSCL sản xuất ra hơn 50% lượng lúa gạo và hơn 65% lượng thủy hải sản của Việt Nam (Bộ NN&PTNT, 2013). ĐBSCL được xem là vùng có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế như: điều kiện tự nhiên thuận lợi; cơ sở hạ tầng giao thông đang được quan tâm, nên việc tiếp cận ĐBSCL được cải thiện đáng kể; nhiều tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long hiện sở hữu môi trường đầu tư hoàn hảo. Theo VCCI (2019), với bình quân điểm PCI của vùng ĐBSCL năm 2018 là 64,31 điểm, tăng 0,9 điểm so với 63,40 điểm bình quân năm 2017. Nổi bật có 3 tỉnh nằm trong top 5 đứng đầu (Đồng Tháp, Long An, Bến Tre), 4 tỉnh trong top 10. Trong 10 chỉ số thành phần, vùng có 5 tỉnh có điểm số đứng đầu, rất nhiều tỉnh đứng ở top đầu trong nhiều chỉ tiêu PCI. Nhưng tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) của ĐBSCL hiện đang ở mức 21,5 tỷ USD, chỉ hơn được vùng Tây Nguyên và Miền núi phía Bắc. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), các doanh nghiệp FDI thường tập trung đầu tư vào các thành phố lớn như: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương. Trong khi đó, ĐBSCL chưa thu hút được nhiều vốn FDI như các khu vực Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Hồng, Thành phố HCM và các vùng khác của Việt Nam (GIZ, 2015). ĐBSCL chỉ chiếm khoảng 6% tổng các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và 5% tổng vốn đăng ký. Mặc dù, số lượng dự án FDI thu hút vào vùng ĐBSCL tăng 73% so với năm 2010, nhưng số lượng số lượng các dự án lớn và tăng số lương các dự án nhỏ (GIZ, 2015). Nhiều nghiên cứu trước đây của Hsin-Hong Kang, Wen-Hsiang Wang (2011), Bulent Dogru (2012), đã cho rằng môi trường thể chế có tác động đáng kể đến dòng vốn FDI. Việc cải 214 thiện môi trường thể chế là một phần quan trọng trong chiến lược chính sách tương lai để thu hút vốn đầu tư vào đất nước (Tajul Ariffin Masron và Hussin Abdullah (2010). Trong khi đó, các yếu tố liên quan đến môi trường thể chế được xem là một trong nhóm các yếu tố quan trọng để thu hút FDI. Phần lớn các nghiên cứu thường tìm hiểu về ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô đến sự thu hút FDI ở Việt Nam hoặc ở các tỉnh. Tuy nhiên, đến nay chưa có bài viết nào nghiên cứu đầy đủ về ảnh hưởng của các yếu tố môi trường thể chế đến thu hút nguồn vốn FDI tại vùng ĐBSCL trong những năm gần đây. Với những lập luận trên, bài viết của nhóm tác giả hướng đến việc xác định và đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố môi trường thể chế đến thu hút nguồn vốn FDI tại vùng ĐBSCL, từ đó đưa ra những gợi ý chính sách cho những nhà hoạch định, lãnh đạo chính quyền địa phương xây dựng môi trường thể chế tốt nhất để tăng cường thu hút nguồn vốn FDI nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của vùng trong tương lai. 2. Khung phân tích 2.1. Môi trường Thể chế Davis & North (1971) khẳng định môi trường thể chế là “tập hợp các mặt cơ bản về chính trị, xã hội, pháp lý, các quy tắc thiết lập cho việc sản xuất, trao đổi và phân phối”, cũng theo North nội dung và chất lượng của các hệ thống như (luật, qui định và thủ tục) và các thể chế phi chính thức (như các quy ước, chỉ tiêu) là cơ chế để xác định sức mạnh của môi trường thể chế. Theo North (1990), thể chế được định nghĩa là “các ràng buộc do con người tạo ra nhằm để cấu trúc các tương tác giữa người với người”. Thể chế bao gồm các thể chế chính thức và phi chính thức. - Thể chế chính thức là những ràng buộc được chế tài bởi Nhà nước như hiến pháp, luật, các qui định. - Thể chế phi chính thức là những ràng buộc không thuộc phạm vi chế tài của nhà nước như tập quán, qui tắc hành xử, văn hóa,… 2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được OECD (1996) và IMF (1993) định nghĩa là một khoản đầu tư liên quan đến mối quan hệ lâu dài và phản ánh sự quan tâm và kiểm soát lâu dài của một thực thể cư trú trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc doanh nghiệp mẹ) trong một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác ngoài nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (doanh nghiệp FDI hoặc doanh nghiệp liên kết hoặc chi nhánh nước ngoài). Nguồn vốn FDI (trực tiếp hoặc thông qua các doanh nghiệp liên quan khác) của một nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đến một doanh nghiệp, hoặc vốn nhận được từ một doanh nghiệp đầu tư của một nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. FDI có ba thành phần gồm vốn chủ sở hữu, thu nhập tái đầu tư và cho vay nội bộ công ty (theo UNCTAD, 2007), cụ thể như sau: - Vốn chủ sở hữu là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua cổ phiếu của một doanh nghiệp ở một quốc gia không phải là của mình. 215 - Thu nhập được tái đầu tư bao gồm cổ phần của nhà đầu tư trực tiếp (chia theo tỷ lệ tham gia vốn cổ phần trực tiếp) của các khoản thu nhập không được chia theo cổ tức củ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ảnh hưởng của môi trường thể chế đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng đồng bằng sông Cửu Long ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG THỂ CHẾ ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ThS.Vũ Thanh An & NCS.ThS.Nguyễn Bá Hoàng Khoa Quản trị, Trường Đại học Luật TP.HCM TÓM TẮT Mục tiêu chính của bài nghiên cứu là kiểm tra ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về môi trường thể chế đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Vận dụng phương pháp ước lượng mô hình tác động cố định (FEM) và tác động ngẫu nhiên (REM), kết quả nghiên cứu đã phát hiện được thu hút vốn đầu tư FDI của các tỉnh khu vực ĐBSCL chịu tác động bởi nhiều yếu tố trong đó có các yếu tố môi trường thể chế. Dựa trên kết quả ước lượng, nghiên cứu cũng đã đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào các tỉnh vùng ĐBSCL trong tương lai. 1. Giới thiệu Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được xem là đầu tàu sản xuất hàng hóa nông nghiệp và là vùng chuyên canh nông nghiệp quan trọng nhất của Việt Nam. Vùng có hơn 17 triệu dân (TCTK, 2019), độ cao trung bình dưới 1,50 m và diện tích khoảng 41.000 km², ĐBSCL sản xuất ra hơn 50% lượng lúa gạo và hơn 65% lượng thủy hải sản của Việt Nam (Bộ NN&PTNT, 2013). ĐBSCL được xem là vùng có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế như: điều kiện tự nhiên thuận lợi; cơ sở hạ tầng giao thông đang được quan tâm, nên việc tiếp cận ĐBSCL được cải thiện đáng kể; nhiều tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long hiện sở hữu môi trường đầu tư hoàn hảo. Theo VCCI (2019), với bình quân điểm PCI của vùng ĐBSCL năm 2018 là 64,31 điểm, tăng 0,9 điểm so với 63,40 điểm bình quân năm 2017. Nổi bật có 3 tỉnh nằm trong top 5 đứng đầu (Đồng Tháp, Long An, Bến Tre), 4 tỉnh trong top 10. Trong 10 chỉ số thành phần, vùng có 5 tỉnh có điểm số đứng đầu, rất nhiều tỉnh đứng ở top đầu trong nhiều chỉ tiêu PCI. Nhưng tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) của ĐBSCL hiện đang ở mức 21,5 tỷ USD, chỉ hơn được vùng Tây Nguyên và Miền núi phía Bắc. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), các doanh nghiệp FDI thường tập trung đầu tư vào các thành phố lớn như: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương. Trong khi đó, ĐBSCL chưa thu hút được nhiều vốn FDI như các khu vực Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Hồng, Thành phố HCM và các vùng khác của Việt Nam (GIZ, 2015). ĐBSCL chỉ chiếm khoảng 6% tổng các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và 5% tổng vốn đăng ký. Mặc dù, số lượng dự án FDI thu hút vào vùng ĐBSCL tăng 73% so với năm 2010, nhưng số lượng số lượng các dự án lớn và tăng số lương các dự án nhỏ (GIZ, 2015). Nhiều nghiên cứu trước đây của Hsin-Hong Kang, Wen-Hsiang Wang (2011), Bulent Dogru (2012), đã cho rằng môi trường thể chế có tác động đáng kể đến dòng vốn FDI. Việc cải 214 thiện môi trường thể chế là một phần quan trọng trong chiến lược chính sách tương lai để thu hút vốn đầu tư vào đất nước (Tajul Ariffin Masron và Hussin Abdullah (2010). Trong khi đó, các yếu tố liên quan đến môi trường thể chế được xem là một trong nhóm các yếu tố quan trọng để thu hút FDI. Phần lớn các nghiên cứu thường tìm hiểu về ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô đến sự thu hút FDI ở Việt Nam hoặc ở các tỉnh. Tuy nhiên, đến nay chưa có bài viết nào nghiên cứu đầy đủ về ảnh hưởng của các yếu tố môi trường thể chế đến thu hút nguồn vốn FDI tại vùng ĐBSCL trong những năm gần đây. Với những lập luận trên, bài viết của nhóm tác giả hướng đến việc xác định và đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố môi trường thể chế đến thu hút nguồn vốn FDI tại vùng ĐBSCL, từ đó đưa ra những gợi ý chính sách cho những nhà hoạch định, lãnh đạo chính quyền địa phương xây dựng môi trường thể chế tốt nhất để tăng cường thu hút nguồn vốn FDI nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của vùng trong tương lai. 2. Khung phân tích 2.1. Môi trường Thể chế Davis & North (1971) khẳng định môi trường thể chế là “tập hợp các mặt cơ bản về chính trị, xã hội, pháp lý, các quy tắc thiết lập cho việc sản xuất, trao đổi và phân phối”, cũng theo North nội dung và chất lượng của các hệ thống như (luật, qui định và thủ tục) và các thể chế phi chính thức (như các quy ước, chỉ tiêu) là cơ chế để xác định sức mạnh của môi trường thể chế. Theo North (1990), thể chế được định nghĩa là “các ràng buộc do con người tạo ra nhằm để cấu trúc các tương tác giữa người với người”. Thể chế bao gồm các thể chế chính thức và phi chính thức. - Thể chế chính thức là những ràng buộc được chế tài bởi Nhà nước như hiến pháp, luật, các qui định. - Thể chế phi chính thức là những ràng buộc không thuộc phạm vi chế tài của nhà nước như tập quán, qui tắc hành xử, văn hóa,… 2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được OECD (1996) và IMF (1993) định nghĩa là một khoản đầu tư liên quan đến mối quan hệ lâu dài và phản ánh sự quan tâm và kiểm soát lâu dài của một thực thể cư trú trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc doanh nghiệp mẹ) trong một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác ngoài nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (doanh nghiệp FDI hoặc doanh nghiệp liên kết hoặc chi nhánh nước ngoài). Nguồn vốn FDI (trực tiếp hoặc thông qua các doanh nghiệp liên quan khác) của một nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đến một doanh nghiệp, hoặc vốn nhận được từ một doanh nghiệp đầu tư của một nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. FDI có ba thành phần gồm vốn chủ sở hữu, thu nhập tái đầu tư và cho vay nội bộ công ty (theo UNCTAD, 2007), cụ thể như sau: - Vốn chủ sở hữu là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua cổ phiếu của một doanh nghiệp ở một quốc gia không phải là của mình. 215 - Thu nhập được tái đầu tư bao gồm cổ phần của nhà đầu tư trực tiếp (chia theo tỷ lệ tham gia vốn cổ phần trực tiếp) của các khoản thu nhập không được chia theo cổ tức củ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài Chính sách thu hút FDI Mô hình tác động cố định Sản xuất hàng hóa nông nghiệp Môi trường thể chếGợi ý tài liệu liên quan:
-
10 trang 213 0 0
-
Đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam
3 trang 167 0 0 -
Ứng dụng mô hình ARDL nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
9 trang 163 0 0 -
Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế vùng Đông Nam bộ
8 trang 139 0 0 -
14 trang 115 0 0
-
88 trang 88 0 0
-
Khuyến nghị nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
7 trang 88 0 0 -
Phát triển kinh tế-xã hội vùng Đông Nam Bộ lần 1 năm 2023 - Kỷ yếu hội thảo khoa học: Phần 1
285 trang 71 0 0 -
Đánh giá tác động lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới các doanh nghiệp ở Nghệ An
9 trang 69 0 0 -
Rủi ro hối đoái và đầu tư trực tiếp của nước ngoài – nghiên cứu tại Việt Nam
5 trang 64 0 0