Danh mục

Áp chế tài chính đã kiềm chế sự phát triển của thị trường tài chính ở các nền kinh tế đang phát triển như thế nào – thực trạng tại Việt Nam

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 326.93 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết nhằm tổng hợp lý thuyết về các công cụ áp chế tài chính mà các chính phủ thường sử dụng, xem xét các nghiên cứu thực nghiệm ở các nước đang phát triển đồng thời đánh giá tác động của những biện pháp này tại thị trường Việt Nam hiện nay.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Áp chế tài chính đã kiềm chế sự phát triển của thị trường tài chính ở các nền kinh tế đang phát triển như thế nào – thực trạng tại Việt Nam TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ÁP CHẾ TÀI CHÍNH ĐÃ KIỀM CHẾ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Ở CÁC NỀN KINH TẾ ĐANG PHÁT TRIỂN NHƯ THẾ NÀO – THỰC TRẠNG TẠI VIỆT NAM ThS. Nguyễn Quang Minh Nhi Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng TÓM TẮT Những áp chế tài chính của Chính phủ được biết đến như là những quy định, luật lệ và các hạn chế khác về thị trường mà nền kinh tế phải tuân theo. Những áp chế này một mặt đã ngăn trở sự phát huy toàn bộ các chức năng của các định chế tài chính trung gian trong nền kinh tế. Mặt khác, các nhà kinh tế học cũng cho rằng các áp chế về tài chính sẽ làm giảm sự phát triển của thị trường tài chính bởi vì những quy định này làm việc phân phối các nguồn lực trở nên kém hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều Chính phủ cho rằng những biện pháp này là cần thiết để đảm bảo tính thanh khoản và ổn định của nền kinh tế. Với xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay, liệu những áp chế tài chính này còn phát huy được vai trò của nó như mong muốn hay đang kiềm chế sự phát triển của thị trường tài chính ở những quốc gia này? Bài viết nhằm tổng hợp lý thuyết về các công cụ áp chế tài chính mà các chính phủ thường sử dụng, xem xét các nghiên cứu thực nghiệm ở các nước đang phát triển đồng thời đánh giá tác động của những biện pháp này tại thị trường Việt Nam hiện nay. Từ khóa: áp chế tài chính, các nước đang phát triển, thị trường tài chính. 1. Đặt vấn đề Từ năm 1973, Shaw đã cho rằng các nước đang phát triển đã để lộ ra rằng sự can thiệp của nhà nước đang hạn chế sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính. Những áp chế tài chính của Chính phủ một mặt đã làm hạn chế sự phát huy toàn bộ các chức năng của các trung gian tài chính, mặt khác làm cho sự phân phối các nguồn lực trở nên kém hiệu quả. Các Chính phủ cũ thông qua nhiều cách thức khác nhau áp đặt lên thị trường tài chính ở các nền kinh tế đang phát triển và kiềm hãm sự phát triển của thị trường này. Có thể kể đến sáu phương pháp thường được chính phủ ở các nước này áp dụng như đặt trần đối với lãi suất huy động, tăng dự trữ bắt buộc ở các ngân hàng, hạn chế các đối tượng cho vay, nắm giữ quyền kiểm soát ở các ngân hàng, hạn chế việc tham gia vào ngành công nghiệp tài chính và kiểm soát dòng vốn (Beim & Calomiris 2001). Bài viết này với mục đích xem xét tác động của những biện pháp mà chính phủ thường áp dụng lên sự phát triển của thị trường tài chính và những nghiên cứu thực nghiệm của nhiều tác giả thực hiện ở các nước trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng xem xét vai trò của các biện pháp áp chế tài chính tại thị trường Việt Nam trong những năm gần đây cũng như các biến đổi hay thay thế của những phương pháp này trong điều kiện mới. 2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm Áp đặt trần lãi suất đối với nguồn vốn huy động là cách thức mà nhiều chính phủ đã áp dụng từ những năm ba mươi. Biện pháp này đảm bảo cho sự tăng trưởng ổn định của hệ thống ngân hàng thông qua việc giảm bớt sự cạnh tranh. Hơn nữa, một khi các ngân hàng không chịu áp lực từ chi phí phải trả trên nguồn vốn huy động thì cũng sẽ giảm bớt những khoản cho vay rủi ro cao, từ đó giảm rủi ro cho ngân hàng. Việc đặt ra lãi suất huy động trần cũng giống như là một sự kiểm soát về giá và nó đem lại cho ngân hàng một mức “tô kinh tế” (economic rents) nhất định do sự không hoàn hảo của thị trường. Khoản tô này không chỉ làm giảm tỷ suất sinh lợi thực tế những người tiết kiệm nhận được mà còn làm giảm các khoản cho vay hiện tại và vì vậy có thể làm tăng lãi suất cho vay đối với những cá nhân vay nợ. Hơn nữa, một khi lạm phát cao sẽ dẫn đến lãi suất thực tế nhận 308 HỘI THẢO NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG được thấp và có thể âm làm giảm mong muốn tiết kiệm trong công chúng. Voridis (1993) nghiên cứu ảnh hưởng của trần lãi suất đến đầu tư của khu vực tư nhân ở Hy Lạp từ năm 1960 đến 1985 đã cho thấy rằng lãi suất cho vay và mức độ đầu tư của khu vực tư có mối quan hệ nghịch chiều. Điều này giúp ông kết luận rằng kết quả từ của việc áp đặt trần lãi suất là hạn chế tín dụng sẽ có tác động tiêu cực lên đầu tư (Voridis 1993). Như vậy phương thức này của chính phủ đã góp phần kìm hãm sự phát triển của thị trường tài chính ở các quốc gia này. Phương pháp thứ hai là ngân hàng trung ương ở các nước đang phát triển yêu cầu tăng dự trữ bắt buộc ở các ngân hàng. Thông thường chính phủ sử dụng phương pháp này nhằm đảm bảo an toàn trong khi xảy ra khủng hoảng tài chính thường kéo theo việc rút tiền ồ ạt và để giảm chi phí các khoản nợ cho chính phủ (Beim & Calomiris 2001). Tháng 10 năm 2008, giám đốc ngân hàng trung ương Brazil đã báo cáo rằng đất nước này đang thực hiện dự trữ ở mức độ cao để đảm bảo rằng các ngân hàng có sự an toàn nhất định về tính thanh khoản và điều này là bắt buộc gửi ở ngân hàng trung ương. Việc ban bố mức độ cao về dự trữ của Brazil xuất hiện từ khủng hoảng tài chính bắt đầu vào khoảng năm 2008/2009, khi đó yêu cầu dự trữ bắt buộc được xem như một nhân tố quan trọng để kiểm soát rủi ro về tính thanh khoản. Tuy nhiên, việc áp dụng mức dự trữ bắt buộc cao cũng có mặt trái của nó. Một khi khoản dự trữ này quá lớn sẽ dẫn tới những tác động tiêu cực nghiêm trọng tới hệ thống tài chính. Phương thức này được xem như một khoản thuế chìm mà các ngân hàng buộc phải gánh chịu, làm hạn chế việc các ngân hàng này tăng các khoản cho vay và đầu tư vào các tài sản khác. Khi có sự xuất hiện của khoản thuế ngầm này có nghĩa là các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng và/hoặc trả cho những người gửi tiết kiệ ...

Tài liệu được xem nhiều: