Áp thuế trong nền kinh tế số
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 536.00 KB
Lượt xem: 26
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Sự phát triển của nền kinh tế số dựa trên việc tăng lợi nhuận cho quy mô và tài sản vô hình đặt ra thách thức không chỉ khó đánh thuế hàng hóa kỹ thuật số, mà còn khó xác định những gì nên đánh thuế. Điều này đặt ra câu hỏi làm thế nào để đảm bảo đánh thuế công bằng trong nền kinh tế số là vấn đề mà các Cơ quan thuế trên toàn thế giới đang cố gắng tìm câu trả lời.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Áp thuế trong nền kinh tế số 363 ÁP THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ SỐ TS. Nguyễn Thanh Huyền Ủy ban Chứng khoán Nhà nước TÓM TẮT Trong nền kinh tế kỹ thuật số hay nền kinh tế số việc xác định nơi tạo ra giá trị đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với áp dụng các quy tắc thuế doanh nghiệp của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển của nền kinh tế số dựa trên việc tăng lợi nhuận cho quy mô và tài sản vô hình đặt ra thách thức không chỉ khó đánh thuế hàng hóa kỹ thuật số, mà còn khó xác định những gì nên đánh thuế. Điều này đặt ra câu hỏi làm thế nào để đảm bảo đánh thuế công bằng trong nền kinh tế số là vấn đề mà các Cơ quan thuế trên toàn thế giới đang cố gắng tìm câu trả lời. Từ khóa: Thuế trong kinh tế số, taxing the digital economy 1. CÁC VẤN ĐỀ VỀ KINH TẾ SỐ VÀ THUẾ Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên thúc đẩy công nghệ, trong đó những phát triển và đổi mới mới đang xảy ra với một tốc độ mà chưa từng thấy trước đây. Khi công nghệ hợp nhất với nền kinh tế tạo ra sự phát triển của nền kinh tế số và tạo ra những thăng hoa cho các doanh nghiệp khi bắt kịp làn sóng đổi mới. Kinh tế số bao gồm thương mại điện tử, cửa hàng ứng dụng, quảng cáo trực tuyến, dịch vụ thanh toán trực tuyến, điện toán đám mây và các nền tảng kết nối có sự tham gia, giữa những người khác. Nếu như năm 1986, chỉ có 1% thông tin toàn cầu được lưu trữ ở dạng kỹ thuật số và phần còn lại ở dạng tương tự, nhưng sự khởi đầu của kỷ nguyên số bắt đầu vào năm 2002 khi có tới 50% dữ liệu được lưu trữ dưới dạng kỹ thuật số (Hilbert và López 2011). Sự chuyển đổi nhanh chóng được thể hiện rõ hơn bằng những cải tiến đáng chú ý về tốc độ tải xuống: năm 2001, trung bình mất 26 giờ để tải xuống một bộ phim nhưng năm 2009 mất 6 phút và năm 2020 dự kiến mất 3,6 giây. Đến năm 2020, sẽ có khoảng 60 tỷ thiết bị Internet dự kiến, tức là khoảng năm thiết bị cho mỗi người. Tất cả những điều này cho thấy thay đổi lớn vừa là chất xúc tác vừa là sản phẩm của nền kinh tế số. Nền kinh tế số cho phép các doanh nghiệp cung cấp quảng cáo và thu hút khách hàng thông qua các dịch vụ xuyên biên giới sử dụng các nền tảng Internet. Người tiêu dùng không còn cần phải mua bản ghi hoặc đĩa CD để nghe nhạc mà có thể nghe nhạc thông qua các dịch vụ tải xuống. Kết quả là, các quốc gia tiêu dùng đã mất cơ sở để thu thuế doanh nghiệp từ các nhà khai thác kinh doanh cung cấp dịch vụ mà họ phải chịu. Bên cạnh đó, trong nền kinh tế số, tài sản vô hình ngày càng gia tăng giá trị dẫn đến tránh thuế bằng cách chuyển các tài sản đó sang các quốc gia có thuế thấp hoặc các thiên đường thuế đã trở nên dễ dàng. Sử dụng dữ liệu lớn mà GAFA đang biến mô hình kinh doanh thành tài sản vô hình thông qua các thuật toán và trí tuệ nhân tạo. Không giống như trường hợp đối với tài 364 sản vật chất, một hợp đồng duy nhất là tất cả những gì cần thiết để chuyển tài sản vô hình qua biên giới. Quảng cáo Tạo giá trị cho người dùng Trung Bán dữ gian liệu Nguồn: Europarl.europa.eu Hình 1. Dịch vụ kỹ thuật số Do tính chất đặc thù của hoạt động kinh doanh kỹ thuật số khác với kinh doanh truyền thống như: Quy mô hoạt động rộng trên môi trường Internet có tính phi biên giới; dễ dàng thay đổi, che giấu thông tin… Những loại hình kinh doanh mới như: Tiền ảo, tài sản kỹ thuật số, cung cấp dịch vụ quảng cáo trên ứng dụng phần mềm, kết nối vận tải bằng phương tiện điện tử...đang khiến ngành thuế khó phân loại những ngành nghề kinh doanh để xác định nghĩa vụ nộp thuế. Hệ thống thuế không theo kịp sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số khiến nó bộc lộ nhiều “lỗ hổng”, giúp các doanh nghiệp công nghệ lợi dụng chỉ trả mức thuế rất thấp, hoặc không phải trả bất cứ đồng thuế nào trong khi thu được lợi nhuận khổng lồ. Chẳng hạn, Google lợi dụng một loại cơ cấu thuế có tên là “Double Irish” và “Dutch Sandwich” chuyển tiền giữa Ireland, Hà Lan và Bermuda, tiết kiệm tới 3,7 tỷ USD tiền thuế trong năm 2016. Năm 2017, Apple chuyển doanh nghiệp con nắm giữ hầu hết số tiền mặt ở hải ngoại không bị đánh thuế đến đảo Jersey, số tiền này lên đến 252 tỷ USD. Năm 2018, Amazon không trả thuế doanh nghiệp liên bang ở Mỹ mặc dù lợi nhuận tới 11,2 tỷ USD. Trách nhiệm của cơ quan quản lý phải đảm bảo lợi ích được chia sẻ công bằng nhất có thể. Bên cạnh đó, thuế là nguồn thu chính của chính phủ tài trợ cho các dự án và dịch vụ công cộng khác nhau, cơ quan thuế phải học cách điều chỉnh khả năng bắt kịp với sự 365 thay đổi nhanh chóng của các hoạt động kinh tế kỹ thuật số. Phần lớn các quy tắc áp thuế doanh nghiệp truyền thống không tính đến thực tế của nền kinh tế toàn cầu hiện đại do: (i). không nắm bắt được các mô hình kinh doanh có lợi từ việc cung cấp dịch vụ kỹ thuật số trong phạm vi quyền hạn mà không theo các quy tắc của cơ sở thường trú truyền thống; và (ii). Không nhận ra vai trò phát triển của người dùng trong việc tạo ra giá trị cho các doanh nghiệp kỹ thuật số. Với sự chênh lệch như vậy giữa việc tạo ra giá trị và nơi nộp thuế, nhiều quốc gia bắt đầu cải cách các quy tắc thuế doanh nghiệp để lợi nhuận được đăng ký và đánh thuế khi doanh nghiệp có tương tác đáng kể với người dùng thông qua các kênh kỹ thuật số. Số hóa nền kinh tế tạo ra cơ hội chưa từng có cho các doanh nhân và người dùng, việc tìm kiếm sự cân bằng giữa việc đánh thuế các doanh nghiệp kỹ thuật số một cách công bằng và cu ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Áp thuế trong nền kinh tế số 363 ÁP THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ SỐ TS. Nguyễn Thanh Huyền Ủy ban Chứng khoán Nhà nước TÓM TẮT Trong nền kinh tế kỹ thuật số hay nền kinh tế số việc xác định nơi tạo ra giá trị đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với áp dụng các quy tắc thuế doanh nghiệp của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển của nền kinh tế số dựa trên việc tăng lợi nhuận cho quy mô và tài sản vô hình đặt ra thách thức không chỉ khó đánh thuế hàng hóa kỹ thuật số, mà còn khó xác định những gì nên đánh thuế. Điều này đặt ra câu hỏi làm thế nào để đảm bảo đánh thuế công bằng trong nền kinh tế số là vấn đề mà các Cơ quan thuế trên toàn thế giới đang cố gắng tìm câu trả lời. Từ khóa: Thuế trong kinh tế số, taxing the digital economy 1. CÁC VẤN ĐỀ VỀ KINH TẾ SỐ VÀ THUẾ Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên thúc đẩy công nghệ, trong đó những phát triển và đổi mới mới đang xảy ra với một tốc độ mà chưa từng thấy trước đây. Khi công nghệ hợp nhất với nền kinh tế tạo ra sự phát triển của nền kinh tế số và tạo ra những thăng hoa cho các doanh nghiệp khi bắt kịp làn sóng đổi mới. Kinh tế số bao gồm thương mại điện tử, cửa hàng ứng dụng, quảng cáo trực tuyến, dịch vụ thanh toán trực tuyến, điện toán đám mây và các nền tảng kết nối có sự tham gia, giữa những người khác. Nếu như năm 1986, chỉ có 1% thông tin toàn cầu được lưu trữ ở dạng kỹ thuật số và phần còn lại ở dạng tương tự, nhưng sự khởi đầu của kỷ nguyên số bắt đầu vào năm 2002 khi có tới 50% dữ liệu được lưu trữ dưới dạng kỹ thuật số (Hilbert và López 2011). Sự chuyển đổi nhanh chóng được thể hiện rõ hơn bằng những cải tiến đáng chú ý về tốc độ tải xuống: năm 2001, trung bình mất 26 giờ để tải xuống một bộ phim nhưng năm 2009 mất 6 phút và năm 2020 dự kiến mất 3,6 giây. Đến năm 2020, sẽ có khoảng 60 tỷ thiết bị Internet dự kiến, tức là khoảng năm thiết bị cho mỗi người. Tất cả những điều này cho thấy thay đổi lớn vừa là chất xúc tác vừa là sản phẩm của nền kinh tế số. Nền kinh tế số cho phép các doanh nghiệp cung cấp quảng cáo và thu hút khách hàng thông qua các dịch vụ xuyên biên giới sử dụng các nền tảng Internet. Người tiêu dùng không còn cần phải mua bản ghi hoặc đĩa CD để nghe nhạc mà có thể nghe nhạc thông qua các dịch vụ tải xuống. Kết quả là, các quốc gia tiêu dùng đã mất cơ sở để thu thuế doanh nghiệp từ các nhà khai thác kinh doanh cung cấp dịch vụ mà họ phải chịu. Bên cạnh đó, trong nền kinh tế số, tài sản vô hình ngày càng gia tăng giá trị dẫn đến tránh thuế bằng cách chuyển các tài sản đó sang các quốc gia có thuế thấp hoặc các thiên đường thuế đã trở nên dễ dàng. Sử dụng dữ liệu lớn mà GAFA đang biến mô hình kinh doanh thành tài sản vô hình thông qua các thuật toán và trí tuệ nhân tạo. Không giống như trường hợp đối với tài 364 sản vật chất, một hợp đồng duy nhất là tất cả những gì cần thiết để chuyển tài sản vô hình qua biên giới. Quảng cáo Tạo giá trị cho người dùng Trung Bán dữ gian liệu Nguồn: Europarl.europa.eu Hình 1. Dịch vụ kỹ thuật số Do tính chất đặc thù của hoạt động kinh doanh kỹ thuật số khác với kinh doanh truyền thống như: Quy mô hoạt động rộng trên môi trường Internet có tính phi biên giới; dễ dàng thay đổi, che giấu thông tin… Những loại hình kinh doanh mới như: Tiền ảo, tài sản kỹ thuật số, cung cấp dịch vụ quảng cáo trên ứng dụng phần mềm, kết nối vận tải bằng phương tiện điện tử...đang khiến ngành thuế khó phân loại những ngành nghề kinh doanh để xác định nghĩa vụ nộp thuế. Hệ thống thuế không theo kịp sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số khiến nó bộc lộ nhiều “lỗ hổng”, giúp các doanh nghiệp công nghệ lợi dụng chỉ trả mức thuế rất thấp, hoặc không phải trả bất cứ đồng thuế nào trong khi thu được lợi nhuận khổng lồ. Chẳng hạn, Google lợi dụng một loại cơ cấu thuế có tên là “Double Irish” và “Dutch Sandwich” chuyển tiền giữa Ireland, Hà Lan và Bermuda, tiết kiệm tới 3,7 tỷ USD tiền thuế trong năm 2016. Năm 2017, Apple chuyển doanh nghiệp con nắm giữ hầu hết số tiền mặt ở hải ngoại không bị đánh thuế đến đảo Jersey, số tiền này lên đến 252 tỷ USD. Năm 2018, Amazon không trả thuế doanh nghiệp liên bang ở Mỹ mặc dù lợi nhuận tới 11,2 tỷ USD. Trách nhiệm của cơ quan quản lý phải đảm bảo lợi ích được chia sẻ công bằng nhất có thể. Bên cạnh đó, thuế là nguồn thu chính của chính phủ tài trợ cho các dự án và dịch vụ công cộng khác nhau, cơ quan thuế phải học cách điều chỉnh khả năng bắt kịp với sự 365 thay đổi nhanh chóng của các hoạt động kinh tế kỹ thuật số. Phần lớn các quy tắc áp thuế doanh nghiệp truyền thống không tính đến thực tế của nền kinh tế toàn cầu hiện đại do: (i). không nắm bắt được các mô hình kinh doanh có lợi từ việc cung cấp dịch vụ kỹ thuật số trong phạm vi quyền hạn mà không theo các quy tắc của cơ sở thường trú truyền thống; và (ii). Không nhận ra vai trò phát triển của người dùng trong việc tạo ra giá trị cho các doanh nghiệp kỹ thuật số. Với sự chênh lệch như vậy giữa việc tạo ra giá trị và nơi nộp thuế, nhiều quốc gia bắt đầu cải cách các quy tắc thuế doanh nghiệp để lợi nhuận được đăng ký và đánh thuế khi doanh nghiệp có tương tác đáng kể với người dùng thông qua các kênh kỹ thuật số. Số hóa nền kinh tế tạo ra cơ hội chưa từng có cho các doanh nhân và người dùng, việc tìm kiếm sự cân bằng giữa việc đánh thuế các doanh nghiệp kỹ thuật số một cách công bằng và cu ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Kinh tế số Thuế trong kinh tế số Hoạt động kinh doanh thương mại điện tử Thuế dịch vụ kỹ thuật số Mô hình kinh doanh sốGợi ý tài liệu liên quan:
-
Báo cáo kế hoạch chuyển đổi số năm 2023 và dữ liệu số quốc gia
25 trang 329 1 0 -
Phát triển công nghệ thông tin theo Nghị quyết đại hội XIII của Đảng
7 trang 319 0 0 -
Tổng luận Giải pháp chính sách phát triển nền kinh tế số
46 trang 243 1 0 -
1032 trang 102 0 0
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Quảng cáo thương mại trực tuyến theo pháp luật Việt Nam hiện nay
84 trang 100 1 0 -
Lao động Việt Nam trong phát triển nền kinh tế số: Thực trạng và giải pháp
7 trang 81 1 0 -
Hành vi mua hàng ngẫu hứng của giới trẻ trên các trang thương mại điện tử
19 trang 74 0 0 -
Khoảng cách số của người cao tuổi và thương mại điện tử tại Việt Nam: Thực trạng và hàm ý chính sách
16 trang 73 1 0 -
Các loại hình thanh toán điện tử ở Việt Nam - nghiên cứu điển hình tại Hải Phòng
11 trang 67 0 0 -
Hệ sinh thái kinh tế số tại Việt Nam
10 trang 60 0 0