Danh mục

ÐÁP ỨNG MIỄN DỊCH QUA TRUNG GIAN TẾ BÀO (Kỳ 5)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 216.99 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các chất chứa bên trong các hạt là các protein có tác dụng tạo ra các lỗ trên màng tế bào đích gọi là các perforin, một họ gồm 6 esterase được gọi là các granzyme có ký hiệu tử A đến F, một số proteoglycan trọng lượng phân tử cao, và một số cytokine gây độc khác nhau như TNF-(. Các tiền lympho T gây độc thiếu cả các hạt trong bào tương lẫn perforin. Sự hoạt hoá của lympho T gây độc sẽ dẫn đến cả sự xuất hiện của các hạt trong bào tương lẫn sự...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ÐÁP ỨNG MIỄN DỊCH QUA TRUNG GIAN TẾ BÀO (Kỳ 5) ÐÁP ỨNG MIỄN DỊCH QUA TRUNG GIAN TẾ BÀO (Kỳ 5) Các chất chứa bên trong các hạt là các protein có tác dụng tạo ra các lỗ trênmàng tế bào đích gọi là các perforin, một họ gồm 6 esterase được gọi là cácgranzyme có ký hiệu tử A đến F, một số proteoglycan trọng lượng phân tử cao, vàmột số cytokine gây độc khác nhau như TNF-(. Các tiền lympho T gây độc thiếucả các hạt trong bào tương lẫn perforin. Sự hoạt hoá của lympho T gây độc sẽ dẫnđến cả sự xuất hiện của các hạt trong bào tương lẫn sự bộc lộ của perforin bêntrong các hạt này. Sau khi liên hợp tế bào được hình hành thì các hạt này được xuất ra ngoàitế bào, các perforin đơn phân tử có trọng lượng phân tử 70 kD được giải phóng từcác hạt này vào vị trí diễn ra liên hợp tế bào, tại đây chúng kết hợp với màng tếbào đích. Khi các phân tử perforin tiếp xúc với màng chúng sẽ trải qua quá trình biếnđổi về hình thái, bộc lộ ra một lĩnh vực lưỡng cực và lĩnh vực này cài vào màng tếbào đích; sau đó thì các đơn phân tử này polymer hoá với sự có mặt của ion Ca2+tạo thành một lỗ hình trụ có đường kính trung bình từ 5 đến 20 nm (hình 13-8a).Có thể nhìn thấy rất nhiều lỗ do perforin tạo ra trên màng tế bào đích tại vị trí liênhợp tế bào (hình 13-8b). Người ta cho rằng các lỗ này có tác dụng thúc đẩy sự thâm nhập vào củacác chất có tác dụng thuỷ phân khác cũng được giải phóng ra từ các hạt có tácdụng phá huỷ tế bào đích. Thật thú vị là perforin có một số đoạn giống với thànhphần C9 của hệ thống bổ thể (xem chương bổ thể) và các lỗ trên màng tế bào đượctạo ra bởi perforin cũng giống như các lỗ được tạo ra bởi phức hợp tấn công màng. Một câu hỏi còn chưa được trả lời đó là tại sao tế bào lympho T gây độc lạikhông bị giết chết bởi các phân tử perforin do bản thân chúng tiết ra. Một tế bàolympho T gây độc đơn độc có thể giết được nhiều tế bào đích và nó lại chẳng bịtổn thương gì trong các quá trình này. Một số giả thuyết đã được đưa ra để biện minh cho sự phòng vệ củalympho T gây độc. Một giả thuyết của Young .J .D .E và Cohn .Z .A cho rằng cáctế bào lympho T gây độc có một protein màng gọi là protectin có tác dụng bấthoạt perforin hoặc là bằng cách ngăn không cho nó cài vào màng tế bào lympho Tgây độc, hoặc là bằng cách ngăn không cho chúng polymer hoá. Tuy nhiên chođến nay vẫn chưa có dẫn chứng nào về một protein có tác dụng bảo vệ như vậy. Giả thuyết thứ hai của Peter và cộng sự cho rằng perforin không được giảiphóng ra dưới dạng hoà tan mà được giải phóng ra nhưng ở bên trong các bọngnhỏ bám vào màng sau đó các bọng này được dự trữ bên trong các hạt đậm điện tửcủa tế bào lympho T gây độc. Sự thật thì các bọng này đã được nhìn thấy dưới kính hiển vi điện tử vàcũng đã được nhận thấy bởi kháng thể gắn vàng colloide để bộc lộ các phân tử thụthể của tế bào T, CD3 và CD8 trên màng tế bào lympho T gây độc (hình 13-9). Theo giả thuyết này thì các bọng được giải phóng từ các hạt của tế bàolympho T gây độc thể hiện tính đặc hiệu với tế bào đích thông qua tương tác củathụ thể của tế bào T và CD8 với các phức hợp kháng nguyên-phân tử hoà hợp môchủ yếu trên màng tế bào đích. Khi các bọng này đã gắn vào tế bào đích thì perforin được giải phóng và tạonên các lỗ như đã được mô tả. Cơ chế này không chỉ ngăn ngừa các lympho T gâyđộc không bị tự giết mình mà còn ngăn không cho các tế bào đích tương ứng bịgiết chết một cách tình cơ do các phân tử perforin di chuyển ra khỏi vị trí hìnhthành liên hợp tế bào. Các cơ chế khác của hiện tượng gây độc tế bào bởi tế bào lympho T gâyđộc: Một số nhà nghiên cứu đã đặt ra câu hỏi là liệu cơ chế làm tan tế bào bởiperforin có thực sự là cơ chế đầu tiên của hiện tượng giết tế bào bởi tế bào lymphoT gây độc. Một trong các rắc rối đối với các dòng tế bào lympho T gây độc đượcsử dụng để nghiên cứu hiện tượng gây độc tế bào là chúng ta có được chúng bằngcách nuôi cấy tế bào với nồng độ cao IL-2. Người ta đã khẳng định được rằng nồng độ IL-2 cao như vậy có thể chuyểncác tế bào lympho T gây độc thành các tế bào giống như tế bào NK (NK like cells)có khả năng giết chết tế bào bởi perforin mà điều này không hẳn là cơ chế bìnhthường của việc giết tế bào bởi lympho T gây độc. Vẫn còn một số biểu hiện cònchưa được giải thích và đang gây tranh luận. Ví dụ như người ta đã phân lập được một số dòng tế bào lympho T gây độccó tiềm năng giết các tế bào đích nhưng lại không thể xác định được là có perforin.Hơn thế nữa hiện tượng giết tế bào đích vẫn được thực hiện bởi một số dòng tếbào lympho T gây độc khi mà hoàn toàn không có ion Ca2+; vì ion Ca2+ cần thiếtđể polymer hoá perforin như vậy nhất định phải có một số cơ chế giết tế bào khácdiễn ra ở các dòng tế bào này. Một biểu hiện khác không giải thích được đó là quá trình tương tác củamột số tế bào lympho T gây độc với các tế bào đích lại dẫn đến một quá trình giếttế bào diễn ra chậm hơn mức bình thường, trong quá trình này các tế bào đích bịtổn thương màng nhân và bị phân cắt ADN được gọi là chết tế bào theo chươngtrình (appotosis). Người ta vẫn chưa biết quá trình này diễn ra như thế nào nhưng có một suyđoán rằng các tế bào lympho T gây độc này có thể tạo ta một quá trình tự tan rãbên trong các tế bào đích bị phân cắt ADN. Một số dòng tế bào lympho T gây độcchế tiết các phân tử có độc tính ví dụ như TNF-( có tác dụng hoạt hoá các enzymgây phân cắt ADN trong nhân các tế bào đích. ...

Tài liệu được xem nhiều: