Axít picric
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 154.86 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Axit Picric (công thức phân tử: C6H3N3O7, công thức cấu tạo: C6H2(NO2)3OH) là một hợp chất hóa học thường được biết đến với cái tên 2,4,6-trinitrophenol. Nó có dạng tinh thể màu vàng và là một trong những hợp chất có tính axit mạnh nhất của phenol. Như các hợp chất chứa nhiều nitrat khác (TNT), axit picric là một chất nổ. Tên của axit picric bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp πικρος-có nghĩa là đắng, để diễn tả vị đắng của nó.Lịch sửAxit picric được đề cập lần đầu tiên trong một bản viết tay về giả kim thuật...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Axít picric Axít picricAxit Picric (công thức phân tử: C6H3N3O7, công thức cấu tạo: C6H2(NO2)3OH) là mộthợp chất hóa học thường được biết đến với cái tên 2,4,6-trinitrophenol. Nó có dạng tinhthể màu vàng và là một trong những hợp chất có tính axit mạnh nhất của phenol. Như cáchợp chất chứa nhiều nitrat khác (TNT), axit picric là một chất nổ. Tên của axit picric bắtnguồn từ tiếng Hy Lạp πικρος-có nghĩa là đắng, để diễn tả vị đắng của nó.Lịch sửAxit picric được đề cập lần đầu tiên trong một bản viết tay về giả kim thuật của JonannRudolf Glauber năm 1742. Lúc đầu nó được tạo ra bằng cách nitrate hóa một số chất nhưsừng động vật, lụa, cây chàm và nhựa tự nhiên. Sự tổng hợp từ phenol và công thức phântử chính xác của nó được hoàn thành vào năm 1841. Tới tận năm 1830 các nhà hóa họcmới nghĩ tới việc sử dụng axit picric như một chất nổ. Trước đó họ cứ tưởng chỉ có muốicủa axit picric là chất nổ, không phải chính axit. Vào năm 1873 Hermann Sprengel chứngminh nó có thể nổ được và năm 1894 những người công nhân Nga đã tìm ra phương phápdùng nó để sản xuất đạn pháo. Ngay sau đó, phần lớn quân lực sử dụng axit picric nhưthuốc nổ mạnh chính. Tuy nhiên, đạn pháo nhồi axit picric trở nên rất không bền khi chấtnày ăn mòn vỏ bom tạo ra picrate kim loại, vốn kém bền hơn phenol nguyên mẫu. Tínhnhạy của axit picric được biểu thị qua vụ nổ Halifax (Halifax Explosion). Vào thế kỷ 20phần lớn việc sử dụng axit picric được thay thế bằng TNT. Axit picric vẫn còn được sửdụng trong việc phân tích hóa học của kim loại, mỏ và khoáng chất.Axít picricVào năm 1885, dựa trên những nghiên cứu của Hermann Sprengel, nhà hóa học ngườiPháp Eugene Turpin đăng ký sáng chế sử dụng axit picric nén và đúc để chế tạo bộc phávào đạn pháo. Năm 1887, chính phủ Pháp sử dụng nó với cái tên melinite với việc thêmvào thuốc súng bông. Từ 1888, nước Anh bắt đầu sản xuất một hỗn hợp tuơng tự ở Lydd,Kent với tên lyddite. Nhật Bản tiếp theo đó với một công thức cải tiến tên schimose. Vào1889, một hợp chất tương tự nữa là hỗn hợp của amoni cresylate với trinitrocresol (haymột muối của amoni với trinitrocresol) được sản xuất dưới cái tên ecrasite.Tổng hợpAxit Picric có thể được tổng hợp bằng cách nitrate hóa phenol, benzene (trong phản ứngWolfenstein-Boters), hay ngay cả axit acetylsalicylic (aspirin).Ứng dụngAxit picric được ứng dụng nhiều nhất trong vũ khí và đạn dược, như đã được đề cập ởtrên.Trong thao tác với kính hiển vi, picric được sử dụng như một chất phản ứng để nhuộmmẫu vật, ví dụ như nhuộm Gram. Nó cũng có một số sử dụng trong hóa hữu cơ nhằm tạothành muối kết tinh của bazơ hữu cơ (picrate) cho việc nhận dạng và xác định tính chất.Bouins picro-formol là một phương pháp bảo quản cho tiêu bản sinh học.Kiểm tra ma túy còn sử dụng axit picric để phát hiện creatinine bằng phản ứng Jaffe. Nótạo thành một hỗn hợp màu phức tạp có thể đo bằng quang phổ kế.Ít thông dụng hơn, axit picric ẩm còn được dùng cho việc nhuộm da hay việc đóng dấutạm thời. Nó phản ứng với protein của da tạo ra màu nâu tối và có thể tồn tại gần mộttháng.Đầu thế kỷ 20, axit picric được ngành dược phẩm sử dụng như chất diệt khuẩn và cáchchữa cho phỏng, sốt rét, mụn giộp, đậu mùa.Tính an toànNhững phương pháp an toàn hiện nay khuyến cáo nên lưu trữ axit picric ẩm. Khi axitpicric khan, nó khá nhạy với sốc và ma sát. Do đó các phòng thí nghiệm thường lưu trữnó trong lọ dưới một lớp nước và khiến nó an toàn hơn. Một yêu cầu nữa là phải dùng lọnhựa hoặc thủy tinh vì axit picric có thể tạo thành muối picrate với kim loại, vốn nhạy vànguy hiểm hơn chính axit. Trong một tai nạn năm 2007, một số nhân công dược ởComlumbus, Wisconsin đã tìm thấy một chiếc lọ đựng hai ounce một loại chất lỏng, đánglẽ phải được giải quyết bởi đội xử lý bom mìn.Bên lềAxit picric được biết tới như một thứ chất nổ rất dễ chế biến tại gia. Việc tổng hợp nó chỉyêu cầu các hóa chất có thể mua được dễ dàng ở các cửa hàng hay nhà thuốc tây, mặc dùđã có rất nhiều người bị thương hoặc tử vong trong quá trình chế biến. Bên cạnh nguy cơnổ, chất khí cực độc NO2 còn có thể được tạo thành trong quá trình chế biến. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Axít picric Axít picricAxit Picric (công thức phân tử: C6H3N3O7, công thức cấu tạo: C6H2(NO2)3OH) là mộthợp chất hóa học thường được biết đến với cái tên 2,4,6-trinitrophenol. Nó có dạng tinhthể màu vàng và là một trong những hợp chất có tính axit mạnh nhất của phenol. Như cáchợp chất chứa nhiều nitrat khác (TNT), axit picric là một chất nổ. Tên của axit picric bắtnguồn từ tiếng Hy Lạp πικρος-có nghĩa là đắng, để diễn tả vị đắng của nó.Lịch sửAxit picric được đề cập lần đầu tiên trong một bản viết tay về giả kim thuật của JonannRudolf Glauber năm 1742. Lúc đầu nó được tạo ra bằng cách nitrate hóa một số chất nhưsừng động vật, lụa, cây chàm và nhựa tự nhiên. Sự tổng hợp từ phenol và công thức phântử chính xác của nó được hoàn thành vào năm 1841. Tới tận năm 1830 các nhà hóa họcmới nghĩ tới việc sử dụng axit picric như một chất nổ. Trước đó họ cứ tưởng chỉ có muốicủa axit picric là chất nổ, không phải chính axit. Vào năm 1873 Hermann Sprengel chứngminh nó có thể nổ được và năm 1894 những người công nhân Nga đã tìm ra phương phápdùng nó để sản xuất đạn pháo. Ngay sau đó, phần lớn quân lực sử dụng axit picric nhưthuốc nổ mạnh chính. Tuy nhiên, đạn pháo nhồi axit picric trở nên rất không bền khi chấtnày ăn mòn vỏ bom tạo ra picrate kim loại, vốn kém bền hơn phenol nguyên mẫu. Tínhnhạy của axit picric được biểu thị qua vụ nổ Halifax (Halifax Explosion). Vào thế kỷ 20phần lớn việc sử dụng axit picric được thay thế bằng TNT. Axit picric vẫn còn được sửdụng trong việc phân tích hóa học của kim loại, mỏ và khoáng chất.Axít picricVào năm 1885, dựa trên những nghiên cứu của Hermann Sprengel, nhà hóa học ngườiPháp Eugene Turpin đăng ký sáng chế sử dụng axit picric nén và đúc để chế tạo bộc phávào đạn pháo. Năm 1887, chính phủ Pháp sử dụng nó với cái tên melinite với việc thêmvào thuốc súng bông. Từ 1888, nước Anh bắt đầu sản xuất một hỗn hợp tuơng tự ở Lydd,Kent với tên lyddite. Nhật Bản tiếp theo đó với một công thức cải tiến tên schimose. Vào1889, một hợp chất tương tự nữa là hỗn hợp của amoni cresylate với trinitrocresol (haymột muối của amoni với trinitrocresol) được sản xuất dưới cái tên ecrasite.Tổng hợpAxit Picric có thể được tổng hợp bằng cách nitrate hóa phenol, benzene (trong phản ứngWolfenstein-Boters), hay ngay cả axit acetylsalicylic (aspirin).Ứng dụngAxit picric được ứng dụng nhiều nhất trong vũ khí và đạn dược, như đã được đề cập ởtrên.Trong thao tác với kính hiển vi, picric được sử dụng như một chất phản ứng để nhuộmmẫu vật, ví dụ như nhuộm Gram. Nó cũng có một số sử dụng trong hóa hữu cơ nhằm tạothành muối kết tinh của bazơ hữu cơ (picrate) cho việc nhận dạng và xác định tính chất.Bouins picro-formol là một phương pháp bảo quản cho tiêu bản sinh học.Kiểm tra ma túy còn sử dụng axit picric để phát hiện creatinine bằng phản ứng Jaffe. Nótạo thành một hỗn hợp màu phức tạp có thể đo bằng quang phổ kế.Ít thông dụng hơn, axit picric ẩm còn được dùng cho việc nhuộm da hay việc đóng dấutạm thời. Nó phản ứng với protein của da tạo ra màu nâu tối và có thể tồn tại gần mộttháng.Đầu thế kỷ 20, axit picric được ngành dược phẩm sử dụng như chất diệt khuẩn và cáchchữa cho phỏng, sốt rét, mụn giộp, đậu mùa.Tính an toànNhững phương pháp an toàn hiện nay khuyến cáo nên lưu trữ axit picric ẩm. Khi axitpicric khan, nó khá nhạy với sốc và ma sát. Do đó các phòng thí nghiệm thường lưu trữnó trong lọ dưới một lớp nước và khiến nó an toàn hơn. Một yêu cầu nữa là phải dùng lọnhựa hoặc thủy tinh vì axit picric có thể tạo thành muối picrate với kim loại, vốn nhạy vànguy hiểm hơn chính axit. Trong một tai nạn năm 2007, một số nhân công dược ởComlumbus, Wisconsin đã tìm thấy một chiếc lọ đựng hai ounce một loại chất lỏng, đánglẽ phải được giải quyết bởi đội xử lý bom mìn.Bên lềAxit picric được biết tới như một thứ chất nổ rất dễ chế biến tại gia. Việc tổng hợp nó chỉyêu cầu các hóa chất có thể mua được dễ dàng ở các cửa hàng hay nhà thuốc tây, mặc dùđã có rất nhiều người bị thương hoặc tử vong trong quá trình chế biến. Bên cạnh nguy cơnổ, chất khí cực độc NO2 còn có thể được tạo thành trong quá trình chế biến. ...
Gợi ý tài liệu liên quan:
-
176 trang 278 3 0
-
46 trang 101 0 0
-
14 trang 99 0 0
-
Tổng hợp nano ZnO sử dụng làm điện cực âm trong nguồn điện bạc - kẽm
5 trang 47 0 0 -
Bài thuyết trình: Tìm hiểu quy trình sản xuất gelatine từ da cá và ứng dụng gelatine
28 trang 40 0 0 -
13 trang 39 0 0
-
11 trang 37 0 0
-
Báo cáo thực tập chuyên đề Vật liệu Ruby Al2O3 : Cr3+ nhâm tạo
25 trang 36 0 0 -
Đề thi môn Hoá học (Dành cho thí sinh Bổ túc)
3 trang 36 0 0 -
34 trang 35 0 0