Danh mục

AZITHROMYCIN VÀ OFLOXACIN TRONG ÐIỀU TRỊ BỆNH THƯƠNG HÀN ÐA KHÁNG THUỐC

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 163.43 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Thư Viện Số

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Công trình nghiên cứu mở, so sánh trên bệnh nhân (BN) chọn lựa ngẫu nhiên để xác định tác dụng của azithromycin (AZM, liều 1g uống 1 lần/ngày) và ofloxacin (OFL, liều 200mg uống 2 lần/ngày) dùng 5 ngày trong điều trị thương hàn đa kháng thuốc (THÐKT). Tất cả gồm 87 BN cấy máu dương tính với 43 thuộc nhóm AZM và 44 nhóm OFL. Kết quả ghi nhận hiệu quả điều trị giữa 2 nhóm không khác biệt (p=0,11; RR: 1,13; 95% CI: 1-1,28). ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
AZITHROMYCIN VÀ OFLOXACIN TRONG ÐIỀU TRỊ BỆNH THƯƠNG HÀN ÐA KHÁNG THUỐC AZITHROMYCIN VÀ OFLOXACIN TRONG ÐIỀU TRỊ BỆNH THƯƠNG HÀN ÐA KHÁNG THUỐCTÓM TẮTCông trình nghiên cứu mở, so sánh trên bệnh nhân (BN) chọn lựa ngẫunhiên để xác định tác dụng của azithromycin (AZM, liều 1g uống 1lần/ngày) và ofloxacin (OFL, liều 200mg uống 2 lần/ngày) dùng 5 ngàytrong điều trị thương hàn đa kháng thuốc (THÐKT). Tất cả gồm 87 BN cấymáu dương tính với 43 thuộc nhóm AZM và 44 nhóm OFL. Kết quả ghinhận hiệu quả điều trị giữa 2 nhóm không khác biệt (p=0,11; RR: 1,13; 95%CI: 1-1,28). Riêng đối với các trường hợp kháng acid nalidixic, 23 BN điềutrị với AZM đều hiệu quả trong khi chỉ có 19/ 24 BN điều trị OFL khỏi bệnh(p=0,049; RR:1,26; 95% CI:1,03 -1,55). Nhóm AZM cũng có thời gian cắtsốt và nằm viện ngắn hơn nhóm OFL (136,936,1giờ so với 169,161,2giờ;p=0, 03 và 12,22,8 ngày so với 14,2 3,5 ngày; p=0,04). Công trình chothấy AZM và OFL đều có tác dụng điều trị hữu hiệu và an toàn THÐKT.Ngoài ra, AZM tỏ ra có ưu thế hơn OFL trong điều trị các chủng S. typhikháng acid nalidixic và có thể là một trong những chọn lựa để điều trị cácbệnh TH kháng quinolones.SUMMARYAN OPEN RANDOMIZED COMPARISON OF AZITHROMYCIN ANDOFLOXACININ THE TREATMENT OF TYPHOID FEVER.Nguyen Tran Chinh*, Y học TP. Ho Chi Minh, Vol. 3, No. 1, 1999: 51-55The efficacy and safety of a 5-day regimen of azithromycin (AZM, 1g orallyonce daily) and ofloxacin (OFL, 200mg orally twice a day) were comparedin an open, randomized study in adult patients with typhoid fever (TF) dueto multidrug-resistant Salmonella typhi (MDRST). A total of 87 culture-confirmed patients were enrolled, including 43 in the AZM group and 44 inthe OFL group. No significant differences in complete cured rate (p=0,11;RR: 1,13; 95% CI: 1-1,28) were observed. Of the nalidixic acid-resistantselected cases, treatment with AZM resulted in complete cure of all 23patients whereas only 19 of 24 patients treated with OFL were completelycured (p=0,049; RR: 1,26; 95% CI:1,03-1,55). Time to fever clearance andhospitalisation were significantly shorter for AZM than for OFL group(136,936,1hours versus 169,161,2hours; p=0, 03 and 12,22,8 days versus14,2 3,5 days; p=0,04). Our study shows that a five-day course of AZM orOFL are both effective for the treatment of TF in adults due to MDRST.Moreover, AZM is significant better than OFL in the treatment of nalidixicacid-resistant S. typhi and may be an alternative for the treatment of typhoidfever caused by S. typhi highly resistant to quinolones.ÐẶT VẤN ÐỀTrong thập niên vừa qua, bệnh thương hàn (TH) đã gia tăng rõ rệt và trởthành một trong những vấn đề y tế quan trọng tại các tỉnh thành phíanam(1,2). Song song với tình hình nói trên, sự xuất hiện và chiếm ưu thế củanhững chủng S. typhi kháng tất cả các kháng sinh như chloramphenicol,ampicillin, trimethoprim-sulfamethoxazole (S. typhi đa kháng thuốc) đãkhiến việc điều trị phải sử dụng chủ yếu những kháng sinh nhómfluoroquinilones như: ofloxacin (OFL), fleroxacin, pefloxacin(3,4). Gần đây,một số nghiên cứu tại các tỉnh phía nam đã phát hiện sự gia tăng nhữngchủng S. typhi kháng acid nalidixic (NA), kháng sinh quinolones thế hệ I, cóđặc điểm: giảm mức độ nhạy cảm đối với fluoroquinolones (nồng độ ức chếtối thiểu MIC90 thay đổi từ 0,06g/ml đến 1.0g/ml) và giảm đáp ứng lâmsàng(5,6,7). Ngoài ra, chủng S. typhi kháng ciprofloxacin được phát hiện tạiTasjikistan năm 1997 cho thấy hiện tượng kháng fluoroquinolones sẽ cónhiều khả năng xảy ra tại Việt Nam(8). Nhiều loại kháng sinh mới đã đượcnghiên cứu về tác dụng điều trị bệnh THÐKT, trong đó, azithromycin(AZM), kháng sinh nhóm azalides được chú ý đến do khả năng phân tán nộibào rất cao tuy chỉ nhạy cảm vừa phải với S. typhi in-vitro(9,10). AZM đãchứng tỏ có hiệu quả điều trị bệnh TH ở chuột gây do S. typhimurium(11) vàđiều trị bệnh TH trên người trong thời gian 7-14 ngày(12,13,14). Chưa có côngtrình nghiên cứu chọn bệnh ngẫu nhiên sử dụng AZM ngắn hơn 7 ngày.Chúng tôi khảo sát pilot trên 5 bệnh nhân cấy máu có S. typhi sử dụngAZM 1g/ngày trong 5 ngày: tất cả đều khỏi bệnh với thời gian cắt sốt trungbình là 138 giờ (giới hạn: 78-228 giờ). Không có BN nào tái phát hoặc phảingưng điều trị do tác dụng phụ của thuốc. Công trình nghiên cứu này đượctiến hành tiếp sau đó với mục đích xác định hiệu quả (lâm sàng, vi sinh học)của AZM và OFL trong điều trị bệnh THÐKT.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU- So sánh tác dụng của AZM và OFL trong điều trị TH đa kháng thuốc.- So sánh kết quả điều trị của AZM và OFL đối với các chủng S. typhi khángacid nalidixic.PHƯƠNG PHÁP và BỆNH NHÂNCông trình thực hiện tại Khoa TH người lớn tại Trung Tâm Bệnh Nhiệt ÐớiTP HCM, được sự chấp thuận của Hội đồng khoa học và y đức của bệnhviện cùng sự đồng ý của các BN. Ðây là nghiên cứu mở, so sánh, BN đượcchọn lựa ngẫu nhiên để thực hiện 2 chế độ điều trị: hoặc với azithromycin(Zithromax-Pfizer): 1g uống 1 lần /ngày hoặc với ofloxacin (Oflocet-Roussel): 200mg uống 2 lần /ngày cùng trong thời gian 5 ngày.BN khảo sát đều có bệnh cảnh nhiễm trùng cấp tính và cấy máu phát hiện S.typhi hoặc S. paratyphi. BN được loại ra khỏi nghiên cứu khi có các biếnchứng nặng như: xuất huyết tiêu hóa, thủng ruột, sốc, hôn mê..., BN mangthai, đã có dùng nhóm quinolones hay cephalosporines trong vòng 1 tuầntrước khi nhập viện hoặc có tiền sử dị ứng với macrolides, quinolones. BNtrong diện khảo sát được dựa trên theo bảng số ngẫu nhiên theo khối để chỉđịnh điều trị với AZM hoặc OFL. Các chỉ định này được đặt trong bao thưdán kín và chỉ mở ra khi BN được chọn vào nghiên cứu. Nhiệt độ và các dấuhiệu sinh tồn khác được theo dõi mỗi 6 giờ. BN được làm tất cả các xétnghiệm thường qui về huyết học, sinh hóa và phân tích nước tiểu trước khiđiều trị và vào ngày 6. Cấy máu được thực hiện t ...

Tài liệu được xem nhiều: