Danh mục

Bà bầu có nguy cơ ốm cao hơn người bình thường

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 165.95 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bà bầu có nguy cơ ốm cao hơn người bình thườngMỗi chúng ta, ai chẳng có một lần ốm. Ốm có thể là nhức đầu, cảm cúm, đau bụng, đau răng... và những nhiễm khuẩn khác. Nhưng người phụ nữ mang thai và sinh đẻ lại càng dễ ốm, đặc biệt dễ có nguy cơ bị nhiễm khuẩn. Trong thời kỳ mang thai, khả năng chống lại các mầm bệnh xâm nhập cơ thể bị giảm sút do sự thay đổi về chuyển hóa lúc có thai, sự biến đổi lớn về nội tiết và sự biến dạng của cơ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bà bầu có nguy cơ ốm cao hơn người bình thườngBà bầu có nguy cơ ốm cao hơn người bình thườngMỗi chúng ta, ai chẳng có một lần ốm. Ốm có thể là nhức đầu, cảm cúm, đau bụng, đaurăng... và những nhiễm khuẩn khác. Nhưng người phụ nữ mang thai và sinh đẻ lại càngdễ ốm, đặc biệt dễ có nguy cơ bị nhiễm khuẩn.Trong thời kỳ mang thai, khả năng chống lại các mầm bệnh xâm nhập cơ thể bị giảm sútdo sự thay đổi về chuyển hóa lúc có thai, sự biến đổi lớn về nội tiết và sự biến dạng củacơ thể (bụng to, bị chèn ép, cơ hoành nằm giữa ngực và bụng bị đẩy lên cao...).Nguy cơ nhiễm khuẩn đối với người có thai không phải chỉ ở mẹ mà thai nhi trong dạ concũng có thể bị lây nhiễm do các mầm bệnh hoặc các độc tố của vi khuẩn từ máu mẹ vàothai qua bánh rau hoặc trực tiếp qua đường âm đạo, cổ dạ con từ dưới đi lên xâm nhậpbuồng ối. Do đó khi bà mẹ có thai, nếu bị mắc bệnh do vi khuẩn, virut hoặc ký sinh trùngđều có thể nặng hơn so với mắc bệnh ngoài thời kỳ thai nghén. Nếu bệnh đã có tỷ lệ tửvong cao ở người bình thường, thì ở người có thai và sinh đẻ, tỷ lệ tử vong còn cao hơnnữa.Khi bị nhiễm khuẩn, tình trạng sốt, mệt mỏi kéo dài, ăn uống kém sẽ ảnh hưởng đến sứckhỏe của mẹ và ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi. Các loại virut, vi khuẩn, ký sinhtrùng gây bệnh ở mẹ, tùy từng loại mầm bệnh mà thai có thể bị nhiễm ở các thời kỳ khácnhau:-Đối với hầu hết các virut, do kích thước của các mầm bệnh rất nhỏ nên khi mẹ bị nhiễmthì các virut đó thường qua được rau để sang thai nhi ở bất kỳ tuổi thai nào. Nếu thai cònquá nhỏ (dưới 12 tuần, trong giai đoạn phôi đang hình thành các bộ phận của cơ thể) thìmột số virut có thể gây dị tật cho thai nhi. Chính vì vậy người ta khuyên các bà mẹ mangthai trong 3 tháng đầu, nếu mắc bệnh cúm thì không nên giữ thai.-Với các loại vi khuẩn, người ta thấy không phải lúc nào chúng cũng có thể xâm nhậpthai vì còn phụ thuộc vào tuổi thai, cấu trúc của rau thai. Thông thường khi tuổi thai cònít tuần, cấu trúc của các gai rau còn dày đặc thì hầu hết các loại vi khuẩn không đi quađược. Khi tuổi thai lớn đến gần ngày đẻ thì nhiều loại vi khuẩn có thể qua được rau đểvào thai nhi do cấu trúc của gai rau thai đã mỏng đi. Chẳng hạn, khi người mẹ bị bệnhgiang mai, xoắn khuẩn gây bệnh này chỉ có thể xâm nhập vào thai từ tháng thứ 5 trở đi.Vì thế nếu người mẹ đang điều trị khỏi giang mai trước khi thai đầy 4 tháng thì nhiều khảnăng con không bị mắc giang mai bẩm sinh. Tuy nhiên, các độc tố của các loại vi khuẩntiết ra trong cơ thể mẹ cũng có thể theo máu mẹ qua rau thai vào thai, gây nguy hiểm chothai.-Với các loại ký sinh trùng (giun, sán), nếu người mẹ bị nhiễm, việc chuyển mầm bệnhsang cho con có khó khăn hơn so với các loại virut và vi khuẩn. Tuy vậy, người ta cũngthấy rằng ký sinh trùng sốt rét có thể truyền từ mẹ sang thai khi bà mẹ đang bị bệnh sốtrét mà sinh con. Tùy tình trạng nhiễm bệnh của mẹ mà thai nhi có thể mắc bệnh, có thể bịdị tật, có thể chết lưu. Nếu không thì thai cũng bị suy dinh dưỡng, không phát triển bìnhthường.Sau khi đẻ, cơ thể người mẹ vẫn trong tình trạng dễ mắc bệnh như khi đang có thai.Ngoài ra, bà mẹ rất dễ bị nhiễm khuẩn bắt nguồn từ đường sinh dục, được gọi là nhiễmkhuẩn sau đẻ (hay nhiễm khuẩn hậu sản). Nhiễm khuẩn sau đẻ có thể là nhiễm khuẩn tạichỗ ở âm hộ, âm đạo do các sang chấn khi đẻ tạo nên, có thể bị nặng hơn nếu bị nhiễmkhuẩn ở dạ con. Vết bong ra trong dạ con được coi như một vết thương hở rất lớn trên cơthể, lại không băng bó được như các vết thương ngoài da. Ở đó lúc này lại có máu vàdịch là môi trường rất thuận lợi cho các vi khuẩn phát triển. Hơn nữa vùng sinh dục lại ởvị trí dễ bị ô nhiễm (phân, nước tiểu bài tiết ngay cạnh).Vì thế, ở bà mẹ sau đẻ chỉ cần lơ là, mất cảnh giác một chút trong việc giữ gìn vệ sinh làcó thể bị nhiễm khuẩn sau đẻ. Điều nguy hiểm hơn là nhiễm khuẩn đó không chỉ lưu trúở bên trong dạ con mà có xu hướng lan rộng ra toàn bộ dạ con, vòi trứng, buồng trứng,lan vào ổ bụng gây viêm phúc mạc (màng bụng), lan vào máu gây viêm tắc tĩnh mạch vànhiễm khuẩn huyết, có thể gây tử vong cho bà mẹ nếu không được phát hiện sớm và điềutrị kịp thời.Đề phòng ra sao?Bà mẹ khi có thai và sinh đẻ hoàn toàn có thể ngăn ngừa tình trạng nguy hiểm trên bằngcác biện pháp sau:- Thường xuyên chú ý giữ gìn vệ sinh thân thể, vệ sinh trong ăn mặc, chỗ ở. Ngoài việcgiữ vệ sinh chung, phải đặc biệt chú ý giữ vệ sinh bộ phận sinh dục hằng ngày.- Hạn chế tiếp xúc ở nơi đông người, nhiều bụi bặm, ô nhiễm hoặc có độ nóng, ẩm cao...Nếu trong gia đình có người mắc bệnh truyền nhiễm hoặc có người bị sốt vì bất cứnguyên nhân nào cũng cần tránh không cho bà mẹ phải tiếp xúc trực tiếp với họ. Tốt nhấtlà cách ly người có bệnh hoặc cách ly bà mẹ có thai hoặc mới đẻ hay đang nuôi con nhỏkhông cho tiếp xúc với người đó.- Khi có thai, bà mẹ phải đi khám thai định kỳ đều đặn. Nếu thấy bị sốt hoặc có bấtthường nào trong cơ thể cũng cần đi khám ngay để được phát ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: