Bà giảng chuyên đề "Bệnh học: Giang mai (Spyphillis)" cung cấp cho người học các kiến thức cơ bản về bệnh như: Định nghĩa bệnh, mầm bệnh, nguồn bệnh và đường lây truyền, triệu chứng lâm sàng bệnh, các kỹ thuật xét nghiệm tìm vi khuẩn, điều trị và phòng bệnh giang mai. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng chuyên đề Bệnh học: Giang mai (Spyphillis) BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ: BỆNH HỌC:GIANG MAI (SYPHILLIS) 1 MỤC TIÊU CHUYÊN ĐỀ: Sau khi học xong chuyên đề “Bệnh học: Giang mai”, người họcnắm được những kiến thức có liên quan đến căn bệnh này, như: Địnhnghĩa, Mầm bệnh, Nguồn bệnh và đường lây, Triệu chứng lâm sàng, Cáckỹ thuật xét nghiệm tìm vi khuẩn, Điều trị, và phòng bệnh bệnh giangmai. 2 NỘI DUNG I. ĐẠI CƯƠNG Giang mai là một bệnh nhiễm khuẩn, lây truyền chủ yếu qua đường tình dụcnhưng có thể lây qua đường máu, đường mẹ sang con và đường tiếp xúc trực tiếpvới các thương tổn giang mai có loét. Bệnh diễn biến nhiều năm (10, 20, 30 năm)có khi cả đời, có lúc rầm rộ, có những thời kỳ ngấm ngầm không có triệu chứng gìlàm cho người bệnh lầm tưởng là đã khỏi và thể lây truyền cho thế hệ sau. Nếu không được điều trị bệnh có thể xâm nhập vào tới cả các phủ tạng đặcbiệt là da, tim mạch, thần kinh trung ương gây nhiều biến chứng rất nặng, có nhiềuhình thái lâm sàng khác nhau nên chẩn đoán cũng rất khó khăn. Bệnh ảnh hưởng tới sức khoẻ bệnh nhân thậm chí gây tử vong hoặc tàn phếsuốt đời nếu không được điều trị kịp thời. Nó ảnh hưởng sâu sắc sức khoẻ và sựphát triển nòi giống của dân tộc. Ở Châu Âu người ta cho rằng bệnh lan truyền do Christopho Colombo cùng44 thuỷ thủ mang bệnh từ Haiti về Tây Ban Nha và sau do bệnh lan thành dịch ởChâu Âu vào đầu thế kỷ 16. Ở Việt Nam bệnh xuất hiện thời kỳ nào cũng chưa xác định rõ. Có thuyếtcho rằng bệnh có từ lúc lính của Gia Long viễn chinh sang Xiêm La (Thái Lan)mang bệnh về (thế kỷ 18) vì vậy mới có tên là bệnh tiêm la. Sự thực bệnh giang mai có từ đời thượng cổ vì trong tài liệu của TrungQuốc, Ấn Độ, Hy Lạp, người ta đã mô tả những thương tổn ở xương người giốnghệt căn bệnh giang mai. Gần đây người ta cho bệnh giang mai là một trong nhóm bệnh xoắn khuẩngây nên: - Bệnh Pian (ghẻ cóc): nguyên nhân do T.Pertenu. Bệnh này gặp ở TâyNguyên - Việt Nam và vùng Trung Mỹ như Mehico... 3 - Bệnh Pinta (tiếng Bồ Đào Nha Maldel Pinta có nghĩa là vẽ màu, vì bệnhnày để lại các vết màu xanh). Nguyên nhân gây bệnh do T.carateum. Bệnh này gặpở Nam Mỹ như Braxin, Achentina... - Bệnh giang mai gây nên do T.Pallidum. Bệnh này gặp ở tất cả các nướctrên thế giới. II. MẦM BỆNH Bệnh giang mai gây nên do xoắn khuẩn nhạt (Treponema pallidum) doSchaudinn và Hoffmann phát hiện ra năm 1905. Đây là 1 loại xoắn khuẩn hình lòxo có 6-10 vòng xoắn, đường kính ngang không quá 0,5µ, dài 6-15µ. Xoắn khuẩncó thể có 3 loại di động: - Di động theo trục dọc kiểu vặn đinh ốc. - Di động qua lại như một quả lắc đồng hồ. - Di động lượn sóng. Ở môi trường ẩm ướt cả 3 loại di động này có thể tồn tại và kéo dài đến 2ngày. Xoắn khuẩn giang mai là một loại vi khuẩn yếu, ra ngoài cơ thể nó khôngsống quá được vài tiếng đồng hồ, nó chết nhanh chóng ở nơi khô, ở nơi ẩm ướt nósống dai dẳng hơn. ở trong nước đá và độ lạnh -20ºC nó vẫn di động được rất lâu. Ở 45ºC nó bị bất động và có thể sống được 30 phút. Xà phòng có thể giết được xoắn khuẩn sau vài phút. Xoắn khuẩn vào cơ thể qua chỗ da và niêm mạc bị xây xát thường là do tiếpxúc trực tiếp do giao hợp, đường sinh dục, đường hậu môn hay đường miệng. Từđó xoắn khuẩn đi vào hạch và 1 vài giờ sau nó đi vào máu và lan truyền khắp cơthể. III. NGUỒN BỆNH VÀ ĐƯỜNG LÂY Những năm gần đây bệnh giang mai đã tăng ở nhiều nước. Bệnh tăng rõ rệt ởcác nước nhiệt đới và các nước phát triển. 4 Hình thái lâm sàng có khác nhau tuỳ theo giống người. Thí dụ: ở người dađen thường hay có biểu hiện viêm nhiều hạch trong giang mai sớm hoặc hay có sẩnhình nhẫn, mụn mủ, viêm xương khớp, viêm mống mắt hoặc trong giang mai muộnthì hay gặp biến chứng tim mạch. Ngược lại giang mai thần kinh, (tabes) liệt toànthân lại rất hiếm gặp ở ng-ười da đen. Ở Việt Nam trước năm 1945 và trong thời kỳ Pháp tạm chiếm cho đến năm1954, bệnh giang mai đứng hàng thứ 2 sau lậu. Phần nhiều bệnh nhân tự chữa hoặcđến thầy thuốc tư nhân nên số liệu không chính xác. Từ 1956-1964, ở Miền Bắc giải phóng, đời sống ổn định, ở các nhóm cónguy cơ cao được kiểm tra. Đã phát hiện trong những năm đầu là 1000-1500ca/năm. Tỷ lệ so với dân số là 0,1/1000. Số lượng giảm dần, cho đến 1963-1964 mỗi năm chỉ phát hiện khoảng 20 ca(tỷ lệ so với dân số lúc đó là 0,01/1000). Bệnh giang mai cũng như các bệnhLTQĐTD khác đã giảm 10 lần so với năm 1954. Từ 1965-1975 là thời kỳ chiến tranh, trật tự và nếp sống bị đảo lộn, tâm lýsinh hoạt không bình thường, y tế khó khăn, các bệnh hoa liễu tăng lên ở miền Bắcvà đặc biệt đến năm 1975 khi đất nước được thống nhất, ...