Mục tiêu của bài giảng là cung cấp các kiến thức giúp người học có thể nắm bắt được cách phân loại tách thành động mạch chủ, nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh, triệu chứng lâm sàng, các xét nghiệm chuẩn đoán, tiến triển tự nhiên và phương pháp điều trị bệnh tách thành động mạch chủ. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng chuyên đề Bệnh học: Tách thành động mạch chủ - Nguyễn Lân Việt
BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ:
BỆNH HỌC:
TÁCH THÀNH ĐỘNG MẠCH CHỦ
Biên soạn: Nguyễn Lân Việt
1
MỤC TIÊU CHUYÊN ĐỀ:
Sau khi học xong chuyên đề “Bệnh học: Tách thành động mạch
chủ”, người học nắm được những kiến thức có liên quan đến căn bệnh
này, như: Phân loại tách thành động mạch chủ, Nguyên nhân và cơ chế
bệnh sinh, Triệu chứng lâm sàng, Các xét nghiệm chẩn đoán, Tiến triển
tự nhiên, và Điều trị bệnh tách thành động mạch chủ.
2
NỘI DUNG
Tách thành động mạch chủ là bệnh ít gặp (tỷ lệ hiện mắc khoảng 5-30
ca/triệu người/năm), tần suất thay đổi phụ thuộc vào từng quần thể với các
yếu tố nguy cơ khác nhau. Triệu chứng bệnh thường đa dạng, dễ nhầm với
nhiều bệnh cảnh cấp cứu khác, cần chú ý nghi ngờ mới có thể chẩn đoán và
xử trí kịp thời, tránh những biến chứng gây tử vong. Tỷ lệ nam/nữ là 2/1, độ
tuổi hay gặp nhất là từ 60 đến 70 tuổi. Tỷ lệ tử vong khoảng 1%/mỗi giờ
trong 48 giờ đầu.
Vị trí tách thành động mạch chủ hay gặp là động mạch chủ lên (chỗ lồi,
vùng cao trên các xoang vành phải và xoang không vành khoảng 1-2cm,
chiếm khoảng 60-65%), động mạch chủ xuống - chỗ xuất phát (ngay dưới chỗ
xuất phát của động mạch dưới đòn trái, 20%), quai động mạch chủ (10%),
còn lại ở động mạch chủ bụng do những vùng này phải căng giãn nhiều nhất
dưới áp lực cao trong kỳ tâm thu hoặc là điểm nối (xung yếu) giữa những
vùng cố định và di động của động mạch chủ.
I. PHÂN LOẠI
Tách thành động mạch chủ có thể theo nhiều kiểu:
1. Phân loại kinh điển: theo hai kiểu DeBakey và Stanford.
Tách thành động mạch chủ hay gặp nhất ở đoạn động mạch chủ lên sau
đó là vùng lân cận với dây chằng động mạch.
1.1. Phân loại theo DeBakey có 3 týp:
- Týp I: thương tổn cả động mạch chủ lên và động mạch chủ xuống.
- Týp II: thương tổn chỉ ở động mạch chủ lên.
- Týp III: thương tổn chỉ ở đoạn động mạch chủ xuống.
3
1.2. Phân loại theo Stanford gồm 2 kiểu:
- Týp A: tổn thương đoạn động mạch chủ lên cho dù khởi phát ở bất kỳ
đoạn động mạch chủ nào.
- Týp Β: thương tổn động mạch chủ đoạn xa kể từ chỗ xuất phát của
nhánh động mạch dưới đòn trái.
Tuy nhiên có khi không thể phân định rõ týp chẳng hạn nếu tách thành
động mạch chủ chỉ ở quai động mạch chủ cạnh vùng xuất phát động mạch
dưới đòn trái gần với gốc động mạch chủ mà không có kèm đoạn động mạch
chủ lên. Vì thế, có thể chia theo vị trí tách thành hai loại: tách thành động
mạch chủ đoạn gần (tính từ gốc động mạch chủ lên đến chỗ xuất phát của
động mạch dưới đòn trái) và đoạn xa (từ đó trở đi).
Hình 1: Phân loại tách thành động mạch chủ theo DeBakey và Stanford.
2. Phân loại theo vị trí giải phẫu, tùy vào đoạn tổn thương.
3. Phân loại theo thời gian bị bệnh
- Cấp tính: thời gian kể từ khi khởi phát ≤ 2 tuần.
- Mạn tính: thời gian > 2 tuần, khoảng một phần ba số bệnh nhân thuộc
nhóm mạn tính.
4
Tỷ lệ tử vong tăng dần lên trong vòng 2 tuần lễ đầu tiên, đạt cực đại vào
khoảng 75-80%, tạo ra một ngưỡng tự nhiên về diễn biến bệnh.
4. Phân loại của Svensson: mới đề xuất gần đây, nhờ kỹ thuật chẩn
đoán hình ảnh mới, là:
a. Tách thành động mạch chủ kinh điển do nội mạc bị tách ra chia động
mạch chủ thành hai lòng giả và thật, có hoặc không thông với nhau qua các
vết rách nội mạc, chênh lệch áp lực giữa hai vùng chỉ từ 15-25 mmHg nên
lòng giả có khuynh hướng phồng lên theo thời gian, tạo ra phình mạch, lóc
rộng, thậm chí vỡ ra.
Hình 2: Phân loại tách thành động mạch chủ theo Svensson.
b. Huyết khối hoặc chảy máu trong thành động mạch chủ thường do đứt
các mạch nuôi động mạch chủ gây xuất huyết/huyết khối trong thành động
mạch chủ, làm thành động mạch chủ dày lên, tiến triển thành loại 1, vỡ ra
hoặc khỏi hẳn với 2 týp khác biệt theo căn nguyên: hoại tử lớp giữa thành
nang Erdheim-Gsell hoặc tạo mảng xơ vữa - với loại này không thể chẩn đoán
được khi chụp mạch mà phải dùng các phương pháp chẩn đoán khác.
5
c. Tách thành động mạch chủ khu trú gây phồng thành động mạch chủ:
không thể chẩn đoán trên lâm sàng, song phát hiện được dưới hình ảnh khối
phồng khi chụp mạch hoặc chụp cắt lớp mạch máu.
d. Loét và nứt mảng xơ vữa động mạch chủ: thường gặp ở động mạch
chủ bụng tuy cũng thấy ở động mạch chủ ngực, các mảng xơ vữa loét có thể
tiến triển thành tách thành động mạch chủ kinh điển hoặc vỡ bung mảng xơ
vữa, gây bệnh cảnh tắc mạch do cholesterol.
e. Tách thành động mạch chủ do chấn thương hoặc do thủ thuật, can
thiệp trong lòng mạch, có thể tiến triển thành loại 1 hoặc 2, thậm chí vỡ ra.
Đường kính vòng van động mạch chủ ở người trưởng thành bình
thường là 2,6 ± 0,3cm ở nam, 2,3 ± 0,2cm ở nữ; đối với động mạ ...