Thông tin tài liệu:
Khái niệm triết học Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ III (TrCN) (1) . - Ở phương Đông: + Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là cách thức và nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm đạt tới chân lý tối cao.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BÀI GIẢNG HỌC VỀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
BÀI GIẢNG TRIẾT HỌC
MÁC – LÊNIN
Biên soạn: Nguyễn Thị Hồng Vân
Đỗ Minh Sơn
Trần Thảo nguyên
BÀI GIẢNG
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Biên soạn: NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN
ĐỖ MINH SƠN
TRẦN THẢO NGUYÊN
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
1 Chương 1: TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.1. TRIẾT HỌC LÀ GÌ?
1.1.1. Triết học và đối tượng của triết học
1.1.1.1. Khái niệm triết học
Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế
kỷ thứ III (TrCN) (1) .
- Ở phương Đông:
+ Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là cách thức và
nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm đạt tới chân lý tối cao.
+ Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
- Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hoá là Philôsôphia -
nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái. Như vậy Philôsôphia vừa mang tính định hướng, vừa
nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người
Tóm lại: Dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học được xem là hình thái cao nhất của
tri thức, nhà triết học là nhà thông thái có khả năng tiếp cận chân lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ
bản chất của mọi vật.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng bao hàm những nội dung giống nhau, đó là:
triết học nghiên cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận
động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng
nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại ta có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người
về thế giới; về vị trí vai trò của con người trong thế giới đó.
1.1.1.2. Nguồn gốc của triết học
Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ nhu cầu cuộc sống,
song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học không thể xuất hiện cùng sự xuất
hiện của xã hội loài người, mà chỉ xuất hiện khi có những điều kiện nhất định.
- Nguồn gốc nhận thức:
(1)
TrCN: Trước Công nguyên
3
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
+ Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con
người có nhu cầu nhận thức thế giới bằng một loạt các câu hỏi cần giải đáp: thế giới ấy từ đâu mà
ra?, nó tồn tại và phát triển như thế nào?, các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có tuân theo quy luật
nào không? ... trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học.
+ Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát và tính trừu tượng cao, do đó,
triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống
hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận.
- Nguồn gốc xã hội:
Lao động đã phát triển đến mức có sự phân công lao động thành lao động trí óc và lao động
chân tay, xã hội phân chia thành hai giai cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp chủ nô và giai cấp nô
lệ. Giai cấp thống trị có điều kiện nghiên cứu triết học. Bởi vậy ngay từ khi Triết học xuất hiện đã
tự mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội
nhất định.
Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau, mà sự phân chia chúng chỉ có tính
chất tương đối.
1.1.1.3. Đối tượng của Triết học; Sự biến đổi đối tượng triết học qua các giai đoạn lịch sử
* Khi mới xuất hiện, Triết học Cổ đại còn được gọi là Triết học tự nhiên - bao hàm trong
nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy
sinh quan niệm sau này cho rằng Triết học là khoa học của mọi khoa học.
* Thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo hội Thiên chúa bao trùm mọi lĩnh vực
đời sống xã hội thì Triết học trở thành một bộ phận của thần học. Triết học chỉ có nhiệm vụ lý giải
và chứng minh cho sự đúng đắn của nội dung trong kinh thánh. Triết học tự nhiên bị thay thế bởi
nền Triết học kinh viện.
* Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn
khoa học chuyên ngành có tính chất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là các khoa
học độc lập. Triết học lúc này có tên gọi là Siêu hình học - Khoa học hậu vật lý. Đối tượng của
Triết học thời kỳ này là nghiên cứu cái ẩn dấu, cái bản chất đằng sau các sự vật, hiện tượng “vật
thể” có thể thực nghiệm được.
+ Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã ...