Thông tin tài liệu:
Tài liệu thsm khảo báo cáo quá trình CIP trong sản xuất sữa dành cho các bạn sinh viên, nhằm mang đến những tài liệu tham khảo hay giúp ích cho quá trình học tập và tìm kiếm tư liệu tham khảo. Báo cáo: CIP trong sản xuất sữa sẽ cung cấp cho bạn các kiến thức về: Những nguyên tắc của CIP, thiết kế thiết bị để có thể tẩy rửa dễ dàng, quản lý hoạt động CIP,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo: CIP trong sản xuất sữa1. Những nguyên tắc của CIP1.1. CIP là gì?CIP là chữ viết tắt của từ Cleaning In Place, là quá trình vệ sinh, tẩy rửa, sát trùng tại chỗ màthiết bị không cần phải tháo lắp. Quá trình này bao gồm việc xịt hoặc phun lên bề mặt thiết bịhoặc cho dung dịch chất tẩy rửa lưu thông trong thiết bị trong điều kiện mà sự chảy rối và tốcđộ dòng chảy tăng lên.Mục đích của quá trình CIP là làm sạch thiết bị nhà xưởng, loại bỏ vi sinh vật tạp nhiễm, bảođảm chất lượng sản phẩm và an toàn vệ sinh thực phẩm.Ưu điểm của CIP:- Không phải tháo lắp thiết bị- Có thể tẩy rửa ở những vị trí khó rửa- Giảm nguy cơ lay nhiễm hóa học- Tính tự động hóa cao- Thời gian thực hiện ngắn- Cải thiện chất lượng và kéo dài thời gian bảo quản sản phẩmHiện nay CIP là một quá trình phổ biến ở hầu hết các nhà máy chế biến sữa, nước giải khátvà các nhà máy chế biến thực phẩm khác.Trong khoảng 10 đến 15 năm gần đây CIP đã có một sự thay đổi lớn trong ngành công nghệchế biến thực phẩm. CIP được sử dụng rộng rãi và phù hợp đối với các ngành công nghiệpchế biến sữa và đồ uống. Nhu cầu của khách hàng về CIP, những cải tiến trong vệ sinh nhàmáy, hoàn thiện chất lượng sản phẩm và kéo dài thời gian bảo quản ngày càng gia tăng.Các tiêu chuẩn cao nhất về vệ sinh là điều kiện tiên quyết cần thiết cho việc sản xuất bất kìcác sản phẩm chất lượng cao nào để cung cấp cho người tiêu dùng. Làm sạch và tiệt trùng bấtcứ quá trình nào của nhà máy chế biến phải được chú ý đặc biệt tối đa sao cho chất lượngsản phẩm cuối cùng là tốt nhất. trước đây làm sạch là một quá trình với quy mô hoạt độngnhỏ, đặc biệt là trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, đó là sự kết hợp chung giữa quá trình làmsạch thủ công và xây dựng lại hệ thống.việc làm sạch thủ công vẫn được sử dụng do nó thểhiện sự kiểm tra tỉ mỉ đến từng chi tiết. Để đảm bảo điều kiện làm việc an toàn cho sức khỏechỉ có giải pháp duy nhất là sử dụng hóa chất nhẹ và nhiệt độ tương đối lạnh ngoài ra cácchất tẩy rửa và khử trùng cũng có thể được sử dụng và phải tuân thủ theo quy trình vệ sinhnghiêm ngặt. Ở quy mô lớn, máy và thiết bị phức tạp hơn thì người ta đã tiếp cận và sử dụnghệ thống thông dụng nhất hiện nay là CIP.Các quá trình làm sạch:Các quá trình làm sạch thủ công hoặc tự động ở hầu hết các nhà máy chế biến đều xu hướngtheo các nguyên tắc trên và thường bao gồm một loạt các giai đoạn rời rạc hoạt có tính chu kì,bao gồm:- Thu hồi sản phẩm- Tiền tẩy rửa- Tuần hoàn chất tẩy rửa- Tẩy rửa trung gian- Tuần hoàn chất tẩy rửa lần 2 ( tùy chọn)- Rửa trung gian- Khử trùng- Kết thúc quá trình tẩy rửaThu hồi sản phẩm:Trước khi làm sạch phải loại các sản phẩm còn lại trong thiết bị ra ngoài trước khi đưa nướcsạch vào để rửa. Quá trình này có thể được áp dụng dựa trên tác dụng của trọng lực, hoặc cóthể sử dụng khí nén hay nước. Giai đoạn này thường được kết hợp với giai đoạn trước khirửa bằng việc bổ sung thêm các hệ thống van chuyển hướng để tạo điều kiện phục hồi sảnphẩm. Để kiểm soát quá trình này người ta sử dụng hệ thống van tự động và bộ đếm thờigian hoặc có thể sử dụng các phương pháp phức tạp hơn như dựa vào độ đục hoặc lắp đặtcác hệ thống cảm biến.Giai đoạn tiền tẩy rửa:Giai đoạn này thường tận dụng lại nước ở giai đoạn rửa trung gian. Điều này giúp làm giảmtổng lượng nước tiêu thụ và nước thải, đồng thời có thể tận dụng năng lượng nhiệt và cácchất tẩy rửa còn sót lại để đưa vào các bể rửa phục hồi trong giai đoạn rửa phục hồi. Giaiđoạn này khá quan trọng vì nó làm sạch sơ bộ thiết bị tránh làm loãng dung dịch tẩy rửa khiđưa vào thiết bị. Giai đoạn này thường được điều khiển thông qua bộ đếm thời gian vàthường được thiết lập ở chế độ sao cho có thể tháo bỏ sản phẩm ở mức tối đa. Tuy nhiênviệc này có thể không hiệu quả khi chi phí sử dụng nước và xử lý nước thải cao.Tuần hoàn chất tẩy rửa:Quá trình này phải được đánh giá bằng thực nghiệm, thời gian thường thay đổi từ 15 phút đếnmột giờ. Thời gian có thể được rút ngắn bằng cách tăng nhiệt độ hoặc nồng độ chất tẩy rửa.Tùy thuộc vào công thức của chất tẩy rửa mà khả năng tạo bọt có thể xảy ra dẫn đến tìnhtrạng làm ô nhiễm sản phẩm, hiện tượng tạo bọt có thể do một số nguyên nhân khác nhưviệc cuốn theo không khí bị rò rỉ thông qua sự hoạt động không hiệu quả của bơm. Sự kếthợp giữa chất tẩy rửa và chất khử trùng hóa học có thể được sử dụng trong quá trình này tuynhiên phương pháp này còn có nhiều hạn chế ví dụ như có thể xảy ra hiện tượng mất cânbằng tỷ lệ giữa các chất.Giai đoạn tẩy rửa trung gian:Mục đích của giai đoạn này là loại bỏ các chất tẩy rửa còn lại trong thiết bị đồng thời có thểthu hồi các chất tẩy rửa, ngoài ra nó còn có tác dụng làm mát thiết bị để chuẩn bị cho quá trìnhkhử trùng tiếp theo. Quá trình này thường sử dụng nước sạch và ở nhiệt độ lạnh. Nước ở giaiđoạn này có thể được tái sử dụng cho giai đoạn trước khi rửa như đã nói ở trên ...