Danh mục

BÁO CÁO KHOA HỌC: TÍNH ĐA DẠNG CỦA HỆ THỰC VẬT VIỆT NAM VỀ MỘT SỐ LOÀI LAN HÀI ĐÁNG CHÚ Ý THU ĐƯỢC Ở LƯU VỰC RÀO ÀN (XÃ SƠN KIM, HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH)

Số trang: 16      Loại file: pdf      Dung lượng: 219.45 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ở khắp nơi trên thế giới các loài thuộc họ LAN (ORCHIDACEAE) luôn luôn là yếu tố nhậy cảm nhất và có nguy cơ bị tiêu diệt lớn nhất của các hệ thực vật địa phương. Nhiều loài của họ này đã lâm vào tình trạng đó rất nhanh chóng do hậu quả của nạn khai thác gỗ bừa bãi, khai hoang mở rộng đất trồng trọt và phá rừng tràn lan, không tuân thủ các quy hoạch và quy trình đề ra.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BÁO CÁO KHOA HỌC: "TÍNH ĐA DẠNG CỦA HỆ THỰC VẬT VIỆT NAM VỀ MỘT SỐ LOÀI LAN HÀI ĐÁNG CHÚ Ý THU ĐƯỢC Ở LƯU VỰC RÀO ÀN (XÃ SƠN KIM, HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH)" TÍNH ĐA DẠNG CỦA HỆ THỰC VẬT VIỆT NAM VỀ MỘT SỐ LOÀI LAN HÀI ĐÁNG CHÚ Ý THU ĐƯỢC Ở LƯU VỰC RÀO ÀN (XÃ SƠN KIM, HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH) L. V. Averyanov Viện Thực vật học Cômarốp Phan Kế Lộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật Nguyễn Tiến Hiệp Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật ĐẶT VẤN ĐỀ Ở khắp nơi trên thế giới các loài thuộc họ LAN (ORCHIDACEAE) luôn luôn là yếu tố nhậy cảm nhất và có nguy cơ bị tiêu diệt lớn nhất của các hệ thực vật địa phương. Nhiều loài của họ này đã lâm vào tình trạng đó rất nhanh chóng do hậu quả của nạn khai thác gỗ bừa bãi, khai hoang mở rộng đất trồng trọt và phá rừng tràn lan, không tuân thủ các quy hoạch và quy trình đề ra. Việc tổ chức các Khu bảo tồn thiên nhiên nhằm bảo tồn nơi sống khởi thủy của nhiều loài LAN sống trong đó có tầm quan trọng sống còn đối với việc cứu vớt tính đa dạng LAN ở quy mô toàn cầu. Liên hệ với vấn đề này thì việc điều tra kiểm kê các loài LAN ở từng địa phương có ý nghĩa quan trọng để xác định các vùng có mức độ đặc hữu LAN cao để ưu tiên bảo tồn. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Lưu vực Rào Àn (thuộc xã Sơn Kim, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh) cho đến nay vẫn còn giữ được một diện tích gần 10 ngàn ha rừng nguyên sinh, nhiều khi là nguyên thủy. Đó là kiểu rừng rậm, thường xanh, nhiệt đới mưa mùa, cây lá rộng, có khi xen với cây lá kim thuộc đai đất thấp (từ bờ suối, khoảng 200 m đến khoảng 600-700 m) và đai núi thấp (từ khoảng 600-700 m đến đỉnh núi cao nhất 1621 m) phát triển trên đá granít (rất it khi trên đá phiến sét). Phần lớn diện tích đó là rừng thuộc đai đất thấp. Kiểu rừng ở hầu hết các vùng khác của nước ta đã bị tàn phá từ lâu đời, thay thế bằng các quần xã cây trồng hay thảm thực vật thứ sinh nghèo nàn. Do đó khu rừng ở lưu vực Rào Àn, nhất là ở phần đất thấp của nó chứa đựng tính đa dạng thực vật cao cùng nhiều loài đặc hữu có giá trị nghiên cứu khoa học cũng như thực tiễn lớn lao mà đã bị biến mất ở các vùng khác. Tư liệu nghiên cứu là các mẫu vật được thu trong một đợt điều tra nghiên cứu thực địa ngắn ngủi vào cuối tháng 4 năm 2002 kết hợp với một số mẫu vật đã thu trước đây, vào tháng 3-5 năm 1998 và tháng 6 năm 1999. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Kết quả nghiên cứu các mẫu vật thu được cho phép chúng tôi phát hiện những nét nổi bật về tính đa dạng cao của họ LAN ở lưu vực Rào Àn. Bài báo này chỉ đề cập đến các loài thuộc họ LAN gặp ở độ cao từ 200 đến 400 m. Ở đây đã kiểm kê được 35 loài LAN (bảng 1). Bảng 1. Các loài LAN gặp trong rừng ở độ cao 200-400 m của lưu vực Rào Àn Trong số các loài đó trước hết phải kể đến Biermannia calcarata, Dendrobium ochraceum, Eria calcarea, Habenaria tonkinensis, Micropera poilanei và Pholidota guibertiae. Chúng đều là các loài đặc hữu của Việt Nam, có sự phân bố rất hẹp, đồng thời là các loài đặc trưng quan trọng nhất cho hệ thực vật nguyên thủy của đai rừng này. Việc bảo tồn các loài đó cần được quan tâm đặc biệt. Sau đây là một số dẫn liệu chi tiết hơn về chúng. 1. Biermannia calcarata Aver., Bot. Zurn. (Leningrad) 73(3): 429 (1998). Loài LAN sống bám trên cây rất nhỏ bé này được phát hiện lần đầu tiên trong rừng nguyên sinh rậm thưỡng xanh nhiệt đới mưa mùa cây lá rộng trên núi đá vôi ở đảo Cát Bà vào năm 1986, và được một trong chúng tôi mô tả là mới cho khoa học (Averyanov, 1988). Từ đó đến nay mặc dầu đã tiến hành nhiều đợt khảo sát tại các vùng khác nhau của đất nước nhưng chưa gặp lại. Chỉ cách đây 3 năm mới tìm thêm được ở vùng mà chúng tôi nghiên cứu. Là yếu tố đặc trưng cho kiểu rừng nguyên thủy, rậm, ẩm ướt, cây lá rộng, ở dải đất thấp của bắc Việt Nam. Mẫu nghiên cứu - Tọa độ: 18o24’ B và 105o13’ Đ; độ cao: 260 m; trong rừng nguyên sinh rậm thường xanh cây lá rộng phát triển trên đất granit; sống bám trên cây gỗ, hoa có màu vàng nhạt; N.T. Hiệp, P.H. Hoàng, D. Harder và L. Averyanov s.n. (14 VI 1999) (HN, LE). 2. Dendrobium ochraceum De Wild., Tribune Hort. 1: 41 (1906). Loài LAN này được mô tả vào năm 1906 dựa trên mẫu vật thu được ở một điểm không được ghi lại chính xác, chỉ chung chung là “Bắc Bộ”. Từ đó chỉ một lần thứ 2 một trong chúng tôi thu được mẫu ở tỉnh Gia Lai (Averyanov, 1994). Trong rừng Rào Àn loài LAN này gặp rất hiếm, sống bám trên cây gỗ cao. Nó có giá trị làm cảnh cao vì cụm hoa mang đến 25 hoa to, có màu sặc sỡ và đến hơn 2 tháng mới tàn. Ở ngoài vùng chúng tôi nghiên cứu loài LAN có lẽ đang trên bờ tuyệt chủng. Mẫu nghiên cứu - Tọa độ: 18o22’00’ B và 105o13’13” Đ; độ cao: 200-240 m; trong rừng nguyên sinh rậm thường xanh cây lá rộng phát triển trên sườn núi đá granit; sống bám trên cây gỗ; P.K. Lộc, L. Averyanov, N.X. Tám và N.T. Vinh HAL 1365 (01 V 2002) (HN, LE). 3. Eria calcarea V.N. Long & Aver., Komarovia 2: 45 (2002). Loài LAN mọc trên đá điển hình, rất ít khi sống bám trên cành cây gỗ. Cho đến nay chỉ gặp ở vùng núi đá vôi phía bắc, từ Sơn La qua Hà Giang đến Cao Bằng, về phía nam chỉ mới đến Hòa Bình. Đây là lần đầu tiên gặp ở khá xa về phía nam, ở vùng núi không phải là đá vôi. Mẫu nghiên cứu- Tọa độ: 18o22’00” B và 105o13’13” Đ; độ cao: 240-260 m, trong rừng nguyên sinh rậm thường xanh cây lá rộng ở ven suối; sống bám trên cây gỗ cao; loài mọc khá phổ biến; P.K. Lộc, L. Averyanov, N.X. Tám và N.T. Vinh HAL 1326 (29 IV 2002) (HN, LE). 4. Habenaria tonkinensis Seidenf., Dansk Bot. Arkiv 31(3): 114 (1977). Trước khi chúng tôi phát hiện được ở vùng Rào Àn thì loài LAN này mới gặp ở một điểm thuộc tỉnh Quảng Ninh cách đây vài chục năm(“Taai Wong Mo Shan, Tong Fa market, Ha-Coi, Tonkin”). Ở Rào Àn loài LAN nhỏ, có củ và hoa màu trắng này mọc thành đám khá phổ biến trong các hốc đất nhiều rêu tích tụ ở khe đá granit dọc suối, đôi khi mọc cả trong các đám cỏ, ở độ cao từ 200 đến 1150 m. Mẫu nghiên cứu- Ở vùng nghiên cứu đã thu được mẫu 3 lầ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: